PGS.TS. Phạm Hữu Nghị cho biết, đây là hội thảo, tọa đàm lần thứ ba của đề tài. Sau hội thảo, các thành viên đề tài sẽ hoàn thiện các chuyên đề để đủ điều kiện tiến hành nghiệm thu cơ sở vào cuối tháng 10/2018.
ThS. Nguyễn Thu Dung (giữa) trình bày tham luận
Mở đầu là báo cáo của ThS. Nguyễn Thu Dung với chuyên đề mang tính khái quát, “Thực trạng pháp luật kinh doanh làm nền tảng pháp lý cho việc thực hiện pháp luật củadoanh nghiệp ở nước ta hiện nay và đề xuất giải pháp”. Pháp luật kinh doanh là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ pháp luật phát sinh trong quá trình thực hiện hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Chuyên đề đánh giá hiện trạng các quy định pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong chu trình hình thành và hoạt động của doanh nghiệp, gồm các giai đoạn gia nhập thị trường, hoạt động và rút lui khỏi thị trường.
Nhận định những hạn chế về pháp luật gia nhập thị trường của doanh nghiệp, ThS. Nguyễn Thu Dung cho rằng, mặc dù đã có những sửa đổi, bổ sung, chỉnh lý để pháp luật gia nhập thị trường ngày càng phù hợp với kinh tế thị trường, tuy nhiên, quá trình gia nhập thị trường của doanh nghiệp vẫn gặp phải những rào cản pháp lý từ: (i)Trình tự, thủ tục gia nhập thị trường giữa các quy định của Luật Doanh nghiệp 2014 và các luật chuyên ngành; (ii) Các quy định về điều kiện kinh doanh; (iii)Tiếp cận các nguồn lực gia nhập thị trường. Ví dụ, các thủ tục về mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, thay đổi vốn điều lệ, góp vốn, tăng vốn đòi hỏi khá nhiều thủ tục phức tạp. Trong khi, đây lại là những hoạt động pháp lý quan trọng để doanh nghiệp bắt đầu một chu trình kinh doanh mới.
Sau khi phân tích thực trạng, chuyên đề đã đề xuất những giải pháp hoàn thiện pháp luật kinh doanh của doanh nghiệp với từng giai đoạn giai nhập, hoạt động và rút lui khỏi thị trường.
PGS.TS. Phạm Hữu Nghị (giữa), Chủ nhiệm đề tài
Sau đó, PGS.TS. Phạm Hữu Nghị cho biết, hội thảo sẽ cùng nghe và thảo luận về các báo cáo liên quan đến 3 phần chính trong thực hiện pháp luật kinh doanh của doanh nghiệp là: tuân thủ, chấp hành và sử dụng.
Nội dung đầu tiên do ThS. Phạm Thị Hiền thực hiện, “Thực trạng tuân thủ pháp luật kinh doanh của doanh nghiệp ở Việt Nam và đề xuất giải pháp”. Tác giả lựa chọn nghiên cứu 3 lĩnh vực chính là pháp luật về thuế; lao động và môi trường. Trong pháp luật về thuế, có 3 nhóm yếu tố tác động đến hành vi tuân thủ thuế của doanh nghiệp, đó là: (i) Xuất phát từ phía Nhà nước: thuế suất, mức phạt, sự phức tạp của chính sách thuế, thanh tra, kiểm tra; (ii) Xuất phát từ phía doanh nghiệp: sự thông thạo về thuế của người nộp thuế; (iii) Dịch vụ hỗ trợ thuế - có thể xuất phát từ phía Nhà nước hoặc các tổ chức thực hiện dịch vụ hỗ trợ thuế.
Thực trạng tuân thủ pháp luật lao động của doanh nghiệp hiện nay được thể hiện qua thực tế thực hiện các nghĩa vụ pháp luật lao động, thông qua công tác đối thoại với doanh nghiệp về chính sách và pháp luật lao động và được thể hiện qua công tác thanh tra lao động của cơ quan quản lý lao động. Qua việc tìm hiểu và thu thập thông tin, tác giả chỉ ra một số điểm đáng chú ý của thực trạng tuân thủ pháp luật lao động của doanh nghiệp từ những trường hợp cụ thể:
- Chưa báo cáo định kỳ về tình hình tuyển dụng và sử dụng lao động với cơ quan lao động;
- Nội quy lao động chưa phù hợp;
- Chưa gửi thang lương, bảng lương đến cơ quan lao động;
- Chưa bố trí cán bộ làm công tác y tế, chăm sóc sức khỏe cho người lao động trong doanh nghiệp;
- Chưa báo cáo tình hình tai nạn lao động, chưa tập huấn cho người lao động, chưa lập tình huống giả định diễn tập ứng cứu khẩn cấp sự cố mất an toàn; chưa quan trắc môi trường lao động.
TS. Bùi Đức Hiển (giữa)
Tiếp theo là báo cáo về thực trạng chấp hành pháp luật kinh doanh của doanh nghiệp do TS. Bùi Đức Hiển trình bày.Về thực trạng chấp hành pháp luật môi trường hiện nay, tác giả đã phân tích các vụ việc cụ thể như Formosa, Vedan từ đó nhận định, chế tài xử lý vi phạm còn quá nhẹ dẫn đến tình trạng nhiều doanh nghiệp sẵn sàng nộp phạt để tiếp tục vi phạm. Bên cạnh đó, các văn bản luật chưa có nhiều quy định chi tiết về nghĩa vụ ngăn chặn ô nhiễm môi trường của doanh nghiệp. Đồng tình với những ý kiến này, ThS. Nguyễn Tiến Đức cho rằng, cơ chế kiểm tra, giám sát hoạt động chấp hành pháp luật môi trường không hiệu quả. Câu hỏi đặt ra là ai giám sát những người giám sát? Các doanh nghiệp vẫn xả thải, gây ô nhiễm môi trường và người dân phải chịu hậu quả.
Hội thảo tiếp tục với các báo cáo của ThS. Chu Thị Thanh An, “Thực trạng sử dụng pháp luật kinh doanh của doanh nghiệp và đề xuất giải pháp” và TS. Trần Văn Biên, “Điều kiện đảm bảo thực hiện pháp luật kinh doanh của doanh nghiệp” và nhận được nhiều trao đổi, thảo luận của các nhà khoa học.
Phát biểu kết thúc hội thảo, PGS.TS. Phạm Hữu Nghị lưu ý các thành viên đề tài cần tìm kiếm, sử dụng các báo cáo, các kết quả nghiên cứu, các số liệu từ các Bộ, Phòng Công nghiệp và Thương mại Việt Nam, Viện Quản lý kinh tế trung ương để bổ sung vào các chuyên đề.