ThS. Mai Thị Minh Ngọc (bên trái) và NCV. Vũ Hoàng Dương
Báo cáo về kết quả nghiên cứu, ThS. Mai Thị Minh Ngọc giới thiệu cơ cấu của đề tài gồm 3 chương:
- Những vấn đề lý luận về giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước;
- Thực trạng giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước ở nước ta;
- Quan điểm và một số giải pháp phát huy vai trò và nâng cao hiệu lực giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước ở nước ta.
ThS. Mai Thị Minh Ngọc trình bày những nội dung chủ yếu trong Chương 1 và Chương 2 của đề tài. Về Chương 1, người nghiên cứu đưa ra khái niệm giám sát, giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước; lí giải bản chất, vai trò, đặc điểm giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước; nêu các phương thức giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước và phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước.
Trong Chương 2, ThS. Mai Thị Minh Ngọc phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước và thực tiễn giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước ở nước ta trong thời gian vừa quan. Tác giả đã phát hiện ra các hạn chế, bất cập của điều chỉnh pháp luật về giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước ở nước ta, chẳng hạn như, chưa có sự thống nhất về khách thể giám sát giữa Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân (HĐND) với Luật Tổ chức chính quyền địa phương. Nhiều hạn chế, bất cập trong thực tiễn giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước đã được đề tài chỉ ra như: Hiệu quả của giám sát thấp; kiến nghị giám sát còn chung chung, không cụ thể; chưa có cơ chế theo dõi việc thực hiện các kiến nghị giám sát; các cơ quan Quốc hội, các đại biểu Quốc hội thiếu thông tin cần thiết; việc chuẩn bị các điều kiện cho hoạt động giám sát chưa đầy đủ;…
Tiếp theo, NCV. Vũ Hoàng Dương trình bày quan điểm và một số giải pháp phát huy vai trò và nâng cao hiệu lực giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước ở nước ta. Về giải pháp, tác giả cho rằng, cần nâng có năng lực cho các đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND; cải cách các phương thức giám sát; tăng cường giám sát chuyên đề; tổ chức các phiên giải trình trước Ủy ban Thường vụ Quốc hội, trước Hội đồng Dân tộc và các ủy ban thường trực của Quốc hội; nâng cao chất lượng các kiến nghị trong các báo cáo giám sát; có cơ chế theo dõi các đối tượng chịu sự giám sát của Quốc hội và HĐND thực hiện các kiến nghị giám sát; tạo cơ chế thuận lợi để nhân dân, cử tri giám sát chính hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND; cung cấp cho đại biểu Quốc hội và HĐND đầy đủ thông tin và mọi phương tiện cần thiết để thực hiện tốt chức năng giám sát.
Trao đổi tại tọa đàm, NCV. Lê Quang Thưởng lưu ý đề tài cần lý giải rõ hơn hệ quả chính trị và hệ quả pháp lý của hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước ở nước ta. TS. Bùi Đức Hiển cho rằng, đề tài cần gắn kết giữa nội dung nghiên cứu lý luận và nội dung nghiên cứu thực tiễn, chú ý vấn đề ủy quyền giám sát và giám sát theo vụ việc. Đề tài cần đưa ra một số trường hợp cụ thể từ thực tiễn để minh chứng.
PGS.TS. Nguyễn Thị Việt Hương gợi ý: Đề tài có phạm vi rộng nên cần phải khoanh vùng phạm vi nghiên cứu và có cách tiếp cận phù hợp. Về mặt lý luận, cần trả lời được câu hỏi: Tại sao Quốc hội và HĐND các cấp được giao chức năng giám sát? Nguồn gốc, bản chất giám sát của Quốc hội và HĐND? Giám sát của Quốc hội và HĐND chính là sự giám sát của Nhân dân, Nhân dân thông qua cơ quan do mình bầu ra để thực hiện giám sát đối với các cơ quan nhà nước. Khái niệm giám sát, giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước trong đề tài cần điều chỉnh lại cho chuẩn hơn. Không nên dựa vào luật thực định để lý giải các vấn đề lý luận. Về mặt thực tiễn, đề tài cần có các nghiên cứu trường hợp cụ thể. Các giải pháp cần được lập luận chặt chẽ và có sức thuyết phục.
PGS.TS. Phạm Hữu Nghị góp ý: Đề tài cần thể hiện rõ hơn, sâu sắc các vấn đề lý luận và thực tiễn. Cần điểm lại các kết quả nghiên cứu của những người đi trước về các nội dung của đề tài; nên có kinh nghiệm nước ngoài; nên đi sâu vào thực tiễn để nêu được các vấn đề đặt ra từ hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước; cần phân tích rõ hơn, sâu hơn về nguyên nhân của tính hình thức, hiệu quả thấp của hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước. Không nên đề xuất quá nhiều giải pháp mà cần bám sát vào thực tiễn để đề xuất các giải pháp một cách thỏa đáng. Có lẽ, cũng nên đưa ra ý kiến về cách làm của phiên chất vấn tại kỳ họp gần đây nhất của Quốc hội: đó là các đại biểu phản bác, thảo luận với nhau. Cách làm này có thể hiện được bản chất của chất vấn, của giám sát nữa không?
TS. Phạm Thị Thúy Nga (giữa)
TS. Phạm Thị Thúy Nga cho rằng, các quy định pháp luật về giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước là khá tốt. Nếu thực thi tốt, thực thi nghiêm chỉnh các quy định này thì hiệu lực, hiệu quả giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước sẽ được nâng cao. Các đại biểu Quốc hội, HĐND có phần còn né tránh, nhìn nhau, nể nhau khi tham gia vào hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước. Cần có giải pháp để hạn chế tình trạng này.
Kết thúc tọa đàm, ThS. Mai Thị Minh Ngọc cảm ơn và giải trình việc tiếp thu ý kiến của những người tham gia hội thảo để hoàn thành tốt đề tài nghiên cứu theo thuyết minh đã được phê duyệt.