Đề tài gồm 3 chương:
- Những vấn đề lý luận về pháp luật môi trường và vấn đề kiểm soát ô nhiễm môi trường ở một số nước ASEAN;
- Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường ở một số nước ASEAN;
- Kết luận và một số gợi mở cho Việt Nam.
ThS. Phạm Thị Hiền (bìa phải) và các thành viên của đề tài
Mở đầu tọa đàm là phần trình bày Chương đầu của ThS. Phạm Thị Hiền. Tác giả đã phân tích bối cảnh kinh tế, xã hội và sự tác động đến vấn đề môi trường ở các nước ASEAN, trong đó có nói đến bối cảnh hợp tác khu vực ASEAN. Cụ thể, khu vực này tồn tại một cơ chế hợp tác về môi trường giữa các nước, gồm các thiết chế với các chức năng, nhiệm vụ khác nhau, đó là:
- Hội nghị Bộ trưởng Môi trường ASEAN: từ năm 2016 các kỳ họp được tổ chức 2 năm/lần. Mục đích của các cuộc họp là hoạch định chiến lược và chính sách hợp tác trong lĩnh vực môi trường;
- Tổ chức các quan chức cao cấp ASEAN về môi trường: các thành viên của tổ chức này gồm các Thứ trưởng hoặc Vụ trưởng môi trường do Bộ trưởng các nước chỉ định tham gia. Mục đích hoạt động là bảo đảm nguyên tắc phát triển bền vững, theo dõi và đánh giá hiện trạng môi trường, quản lý, bảo tồn tài nguyên,…
Sự hợp tác của các nước trong khu vực về vấn đề môi trường còn được thể hiện qua việc thành lập các nhóm công tác và nhóm đặc trách kỹ thuật. Điều này cho thấy các quốc gia đã có những động thái tích cực trong các hoạt động chung về bảo vệ môi trường của khu vực, cũng như thể hiện được nhu cầu hợp tác, học hỏi lẫn nhau để giải quyết các vấn đề môi trường trong nước và khu vực.
ThS. Phạm Thị Hiền tiếp tục giới thiệu đặc điểm một số nước và sự tác động đến môi trường. Bốn nước trong khu vực ASEAN được đề tài lựa chọn nghiên cứu là Thái Lan, Singapore, Malaysia và Philippines. Nhìn nhận về đặc điểm kinh tế - xã hội, sự phát triển kinh tế cho thấy một thực tế là nền kinh tế của các quốc gia này mạnh hơn so với các nước có nền kinh tế nông nghiệp, tốc độ phát triển xã hội và khả năng hội nhập quốc tế cũng nhanh hơn. Tuy nhiên, chính việc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã dẫn đến những hậu quả về môi trường, cụ thể là vấn đề ô nhiễm môi trường do chất thải, nước thải công nghiệp. Malaysia đặc biệt phát triển các ngành công nghiệp dầu cọ, cao su, khai khoáng, chế biến gỗ, xi măng… Tuy nhiên, việc phát triển các ngành công nghiệp với tốc độ nhanh lại không chú trọng đến bảo vệ môi trường đã để lại những hậu quả nặng nề về ô nhiễm môi trường.
Tác giả cũng cho biết khái niệm kiểm soát ô nhiễm môi trường theo pháp luật ở 4 quốc gia. Điểm chung ở các nước này là đều không có khái niệm về “kiểm soát ô nhiễm môi trường” nói chung mà chỉ có khái niệm về các nội dung cụ thể hơn như: ô nhiễm, ô nhiễm không khí, ô nhiễm nước, công cụ kiểm soát ô nhiễm,… Tuy nhiên, tựu chung những nội dung đó có thể dẫn đến cách hiểu về mục đích của kiểm soát ô nhiễm môi trường nhằm: ngăn chặn, giám sát, giảm thiểu, xử lý ô nhiễm môi trường thông qua các công cụ, biện pháp, thiết chế khác nhau.
Từ những nghiên cứu, tìm hiểu về kiểm soát ô nhiễm môi trường qua nghiên cứu quốc tế, 4 nước ASEAN và theo pháp luật Việt Nam, nhóm nghiên cứu đã đưa ra cách hiểu của mình: Kiểm soát ô nhiễm môi trường là việc Nhà nước, các cá nhân, tổ chức quản lý được nguồn gây ô nhiễm, nắm bắt được quá trình, mức độ ô nhiễm và có biện pháp xử lý ô nhiễm nhằm giảm thiểu và loại bỏ các yếu tố gây ô nhiễm môi trường.
Đề tài cũng đưa ra cách hiểu về “pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi trường” như sau: Pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi trường là hệ thống pháp luật do Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh hoạt động của Nhà nước, tổ chức, cá nhân trong việc quản lý nguồn gây ô nhiễm; nắm bắt quá trình, mức độ ô nhiễm và thực hiện các biện pháp xử lý ô nhiễm nhằm giảm thiểu và loại bỏ các yếu tố gây ô nhiễm môi trường.
Tiếp theo, tọa đàm lắng nghe nội dung pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường ở một số nước ASEAN. Theo đó, đề tài lựa chọn 3 nội dung chính để nghiên cứu:
- Pháp luật về quy chuẩn kỹ thuật môi trường – ThS. Nguyễn Thị Hưng;
- Pháp luật về quan trắc và thông tin môi trường – ThS. Lê Phương Hoa;
- Pháp luật về xử lý ô nhiễm môi trường – NCV. Nguyễn Thị Thùy Linh.
Từ việc phân tích pháp luật về quy chuẩn kỹ thuật môi trường ở 4 nước, ThS. Nguyễn Thị Hưng cho biết, các nước đều ban hành những quy định về: (i) Tiêu chuẩn kỹ thuật môi trường nước, không khí và chất thải độc hại; (ii) Chế tài đối với những hành vi xả thải ra môi trường những chất thải không phù hợp với các tiêu chuẩn kỹ thuật môi trường; (iii) Mức xử phạt, có mức xử phạt bằng tiền nhưng cũng có mức xử phạt buộc những người vi phạm phải chịu trách nhiệm hình sự. Trong 4 nước này, Singapore là nước quy định mức phạt cụ thể nhất và cũng có những hình phạt nặng nhất đối với những hành vi gây ô nhiễm môi trường. Một điểm đáng lưu ý là hầu hết các nước đã có quy định về việc nhập khẩu chất thải nguy hại. Vì thế, Việt Nam cần nhanh chóng nghiên cứu để ban hành quy định cụ thể về vấn đề này.
Từ những phân tích trên, đề tài đề xuất một số gợi mở cho Việt Nam:
- Nâng cao vai trò, sự tham gia của cộng đồng, đặc biệt là những người thụ hưởng trực tiếp/người chịu ảnh hưởng từ ô nhiễm môi trường;
- Chính phủ cần có những hướng dẫn cụ thể về mặt kỹ thuật để đảm bảo kiểm soát được ô nhiễm môi trường đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh vừa và nhỏ ở khu vực nông thôn;
- Nâng cao nhận thức của chính quyền địa phương về bảo vệ môi trường, kiểm soát ô nhiễm môi trường và pháp luật về bảo vệ môi trường, kiểm soát ô nhiễm môi trường;
- Nâng cao vai trò của tòa án/thẩm phán trong việc bảo vệ môi trường nói chung và trong việc kiểm soát ô nhiễm môi trường nói riêng.
Trao đổi tại tọa đàm, TS. Bùi Đức Hiển cho rằng, khi nghiên cứu so sánh thì không chỉ nói đến sự tương đồng, khác biệt mà còn cần đề cập đến yêu cầu và mục tiêu kiểm soát ô nhiễm môi trường ở các quốc gia trên. Về nội dung pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi trường, TS. Hiển gợi ý đề tài nên nghiên cứu thêm một lĩnh vực nữa là pháp luật về quản lý chất thải.
Theo PGS.TS. Nguyễn Đức Minh, đề tài cần nêu ra những điểm nổi bật trong các quy định pháp luật của 4 nước từ đó đánh giá, đề xuất để Việt Nam có thể áp dụng. Đề tài cũng nhận được những bình luận, nhận xét của PGS.TS. Lê Mai Thanh, ThS. Nguyễn Thanh Tùng, ThS. Nguyễn Tiến Đức và các nhà khoa học khác.
Chiều ngày 3/10/2018, hai đề tài cơ sở cuối cùng thực hiện trong năm 2018 cũng đã tổ chức buổi sinh hoạt khoa học và nhận được nhiều ý kiến trao đổi, bình luận của các nhà khoa học trong Viện:
- Giám sát của các tổ chức xã hội đối với hoạt động của bộ máy nhà nước – Chủ nhiệm: ThS. Lê Thương Huyền;
- Những vấn đề lý luận và thực tiễn về nguồn luật tập quán ở Việt Nam hiện nay – Chủ nhiệm: ThS. Cao Việt Thăng.