•  
     
  •  
     
  •  
     
  •  
     
  •  
     
LIÊN KẾT WEBSITE

Tọa đàm khoa học đề tài cơ sở tổ chức ngày 15/10/2025

23/10/2025
Sáng ngày 15/10/2025, Viện Nhà nước và Pháp luật đã tổ chức tọa đàm báo cáo kết quả nghiên cứu 02 đề tài cấp cơ sở của phòng Luật Kinh tế thực hiện năm 2025.

Chủ trì tọa đàm là TS. Phạm Thị Hương Lan, Trường phòng Phòng Luật Kinh tế. Đề tài đầu tiên báo cáo kết quả nghiên cứu có chủ đề “Pháp luật về đầu tư theo hình thức đối tác công tư trong quá trình chuyển đổi xanh ở Việt Nam hiện nay” do ThS. Nguyễn Thu Dung là chủ nhiệm, thành viên là TS. Hoàng Kim Khuyên và ThS. Phạm Thị Hiền. Về lý do lựa chọn đề tài, Chủ nhiệm đề tài cho biết, Việt Nam có những cam kết mạnh mẽ về chuyển đổi xanh, trong đó hướng tới mục tiêu Net Zero vào năm 2050. Để thực hiện được mục tiêu này, Việt Nam cần một nguồn vốn vô cùng lớn để đầu tư vào cơ sở hạ tầng xanh, trong đó đầu tư theo hình thức đối tác công tư (PPP) là một trong những hình thức huy động nguồn vốn đó. Lý do thứ hai là pháp luật về PPP của Việt Nam dường như chưa có quy định nào để liên kết tới mục tiêu này và hiện nay còn ít các nghiên cứu về mảng PPP nói chung cũng như PPP phục vụ cho chuyển đổi xanh.

 

ThS. Nguyễn Thu Dung báo cáo kết quả nghiên cứu của đề tài

 

Bố cục của đề tài gồm 3 chương:

Chương 1. Cơ sở lý luận pháp luật về đầu tư theo hình thức đối tác công tư trong quá trình chuyển đổi xanh;

Chương 2. Đánh giá thực trạng pháp luật về đầu tư theo hình thức đối tác công tư ở Việt Nam đáp ứng quá trình chuyển đổi xanh hiện nay;

Chương 3. Gợi mở một số định hướng, giải pháp sửa đổi, bổ sung pháp luật về đầu tư theo hình thức đối tác công tư nhằm đáp ứng quá tình chuyển đổi xanh ở Việt Nam hiện nay.

 

Đề tài đã đưa ra những thông tin, chỉ ra sự khác biệt giữa PPP truyền thống, PPP phát triển bền vững và PPP xanh. Theo đó, mục tiêu của PPP xanh không chỉ là hiệu quả kinh tế - tài chính mà bảo vệ môi trường là bắt buộc. Về chủ thể, với PPP xanh, ngoài Nhà nước và nhà đầu tư còn có tổ chức phi chính phủ, cộng đồng địa phương để chia sẻ trách nhiệm về môi trường. Vậy khi xuất hiện hình thức PPP mới là PPP xanh thì pháp luật về PPP cần thay đổi như thế nào.

 

Nhóm nghiên cứu đi vào tìm hiểu tác động của mô hình PPP xanh đòi hỏi pháp luật về PPP cần phải thay đổi, thích ứng ra sao. Sự thay đổi này không chỉ đơn thuần là bổ sung các tiêu chí kỹ thuật mà còn là tái cấu trúc chức năng của pháp luật về PPP, từ thể chế huy động vốn ngoài ngân sách trở thành thể chế điều chỉnh các quan hệ pháp lý phục vụ cho quản trị chuyển đổi xanh. Sự tác động này thể hiện chủ yếu ở 3 khía cạnh: (i) Bổ sung nguyên tắc pháp lý nền tảng về bảo vệ môi trường cho pháp luật về PPP; (ii) Thay đổi cấu trúc pháp luật; (iii) Tái định hình hệ thống trách nhiệm pháp lý của các bên liên quan. Trong đó, để đáp ứng được sự thay đổi trong hình thức của PPP xanh, pháp luật về PPP phải bổ sụng một số nguyên tắc pháp lý nền tảng mới, đó là: tính thống nhất thể chế pháp lý, mục tiêu xanh, tính minh bạch và trách nhiệm giải trình, tính thích ứng.

 

Đề tài đã tìm hiểu pháp luật về PPP tiếp cận dưới góc độ chương trình PPP và dự án PPP. Thay đổi về mặt cấu trúc là thay đổi cơ bản nhất mà pháp luật về PPP sẽ phải thực hiện để mà có thể đáp ứng được việc điều chỉnh đối với mô hình đầu tư xanh.

 

Toàn cảnh buổi sinh hoạt khoa học

 

Chương trình PPP xanh là cơ chế pháp lý trung gian, kết nối giữa chiến lược phát triển bền vững và các dự án PPP cụ thể. Đây là công cụ linh hoạt cho phép Chính phủ điều phối các gói đầu tư xanh theo vùng, ngành hoặc mục tiêu khí hậu cụ thể thay vì xử lý từng hợp đồng riêng biệt. Chức năng lớn nhất của chương trình PPP xanh là giúp cho các quy định pháp luật PPP vượt qua giới hạn của cách tiếp cận truyền thống, rằng buộc bên Nhà nước mạnh hơn. Nhà nước không chỉ còn là đối tác giao kết hợp đồng nữa mà là “nhà điều phối thể chế”. Tuy nhiên, khi thiết lập chương trình PPP xanh sẽ dẫn đến hệ quả phân tầng rõ hơn của các bên liên quan. Đề tài đã đưa ra ví dụ thực tế với Chương trình Green PPP của Nhật Bản, là tập hợp dự án công-tư hướng tới đạt mục tiêu phát thải thấp hoặc thích ứng biến đổi khí hậu, được phê duyệt và giám sát thống nhất, nhằm đồng bộ hóa pháp lý giữa các dự án PPP, đảm bảo tuân thủ cùng tiêu chí về phát thải và đánh giá tác động môi trường và giám sát môi trường.

 

Tiếp theo, ThS. Phạm Thị Hiền đã đánh giá pháp luật về PPP ở Việt Nam đáp ứng quá trình chuyền đổi xanh hiện nay. Tác giả cũng đánh giá theo hai cấp độ, chương trình PPP và dự án PPP. Trên thực tế, ở Việt Nam hiện nay, vẫn chưa có một khung khổ pháp lý ở cấp độ chương trình PPP cho một dự án PPP nói chung cũng như dự án PPP xanh nói riêng. Nhiều dự án trong danh mục PPP xanh vẫn dừng ở bước đề xuất. Thiếu quy định pháp lý chi tiết hướng dẫn từng lĩnh vực đầu tư PPP cụ thể dẫn đến các dự án chưa được triển khai. Thiếu nguồn vốn đầu tư cho chuyển đổi xanh. Những dự án chuyển đổi xanh cần nguồn tài chính lớn, việc thực hiện các dự án PPP xanh là giải pháp được đặt ra để giải quyết bài toán này. Tuy nhiên, các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa, nguồn lực tài chính không đủ mạnh, việc tìm kiếm các giải pháp tài chính khi tham gia dự án PPP là vô cùng cần thiết. Hiện nay, các dự án PPP nói chung và PPP xanh nói riêng chưa có cơ chế hỗ trợ cụ thể.

 

Sau đó, TS. Hoàng Kim Khuyên đã đưa ra các quan điểm, lập luận nhằm làm sáng tỏ lý do, cơ sở chính trị, pháp lý và bối cảnh trong nước, quốc tế cần thiết cho việc sửa đổi luật về PPP. Sau buổi tọa đàm này, các thành viên đề tài sẽ tiếp thu ý kiến thảo luận, đóng góp của các nhà khoa học và sớm đề xuất giải pháp sửa đổi, bổ sung pháp luật về PPP nhằm đáp ứng quá trình chuyển đổi xanh ở Việt Nam.

 

Tại phần thảo luận, TS. Phạm Thị Hương Lan nhìn nhận, trên thực tế các doanh nghiệp tư nhân chưa mặn mà tham gia các dự án PPP nói chung cũng như các dự án PPP xanh nói riêng. Lý do là gì? Trả lời câu hỏi này, ThS. Phạm Thị Hiền cho rằng, lý do đầu tiên khiến cho doanh nghiệp chưa hào hứng tham gia dự án PPP là vì lợi nhuận cũng như các dự án chưa đảm bảo tính chia sẻ rủi ro cho các nhà đầu tư khi chưa đảm bảo sự bình đẳng giữa các bên trong hợp đồng, nhà đầu tư vẫn ở thế yếu hơn so với Nhà nước.

 

Tọa đàm cũng nhận được những ý kiến trao đổi về các vấn đề khác liên quan đến: mối liên hệ giữa chuyển đổi xanh và phát triển bền vững; tiêu chí chuyển đổi xanh đã hợp lý chưa…

 

ThS. Nguyễn Thị Bảo Nga trình bày kết quả nghiên cứu đề tài cơ sở cá nhân do mình là chủ nhiệm

 

Đề tài thứ hai báo cáo kết quả nghiên cứu là đề tài cá nhân do ThS. Nguyễn Thị Bảo Nga là chủ nhiệm, “Thực trạng chính sách, pháp luật về hỗ trợ phát triển kinh tế tuần hoàn trong lĩnh vực nông nghiệp ở Việt Nam hiện nay”. Kinh tế tuần hoàn (KTTH) là xu hướng tất yếu của phát triển nông nghiệp bền vững, giúp tận dụng phụ phẩm, giảm chất thải, tiết kiệm tài nguyên và bảo vệ môi trường. Việt Nam, một quốc gia nông nghiệp lớn, vẫn sản xuất manh mún, năng suất thấp, lãng phí tài nguyên, gây ô nhiễm. Trong khi đó, các nước như Hà Lan, Đức, Israel đã thành công với mô hình KTTH. Ở Việt Nam, một số doanh nghiệp tiêu biểu như Vinamilk, TH True Milk đã áp dụng mô hình này và cho hiệu quả tích cực. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành mới có quy định khung, thiếu cơ chế cụ thể về đầu tư, đất đai, thuế, tín dụng, công nghệ, tiêu dùng xanh… nên cần được hoàn thiện.

 

KTTH trong nông nghiệp là mô hình sản xuất khép kín, tái sử dụng phụ phẩm, giảm phát thải và gia tăng giá trị. Chính sách, pháp luật hỗ trợ KTTH gồm hệ thống định hướng, quy định, ưu đãi, khuyến khích nghiên cứu, ứng dụng khoa học - công nghệ, bảo đảm hài hòa giữa lợi ích kinh tế, môi trường, xã hội. Đặc điểm nổi bật là tính liên ngành, linh hoạt, kết hợp hỗ trợ, ưu đãi, ràng buộc để thúc đẩy chuyển đổi từ mô hình tuyến tính sang tuần hoàn.

 

ThS. Nguyễn Thị Bảo Nga đã phân tích thực trạng chính sách, pháp luật về đất đai, môi trường và tài chính xanh. Hiện nay, Luật Đất đai năm 2024 đã có những bước tiến (quy hoạch sinh thái, minh bạch thông tin, tích tụ tập trung đất đai, kéo dài thời hạn sử dụng…), nhưng vẫn thiếu tiêu chí cụ thể cho KTTH, cơ chế ưu đãi chưa rõ ràng, tư vấn đất đai còn yếu, thiếu khung pháp lý cho tích tụ đất phục vụ mô hình tuần hoàn. Về môi trường, Luật Bảo vệ môi trường năm 2020, các nghị định và quy chuẩn kỹ thuật đã tiếp cận KTTH nhưng còn phân tán. Quản lý chất thải nông nghiệp chủ yếu tập trung vào nước thải chăn nuôi, chưa bao quát phụ phẩm trồng trọt, bao bì thuốc bảo vệ thực vật… Các chính sách sản xuất sạch hơn, tiêu dùng xanh, nhãn sinh thái và trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR) đã hình thành nhưng thiếu tiêu chí kỹ thuật và cơ chế giám sát, hỗ trợ tài chính. Về tài chính xanh, các công cụ như mua sắm công xanh, trái phiếu xanh, tín dụng xanh được ban hành song triển khai còn hạn chế, quy mô nhỏ, thiếu tiêu chuẩn, ưu đãi thuế và hướng dẫn cụ thể.

 

KTTH trong nông nghiệp là hướng đi tất yếu giúp Việt Nam phát triển bền vững, bảo vệ môi trường và nâng cao giá trị nông sản. Hệ thống chính sách, pháp luật hiện nay đã có nền tảng nhưng còn thiếu đồng bộ, cụ thể và cơ chế khuyến khích mạnh. Cần tiếp tục hoàn thiện đồng thời ở các lĩnh vực đất đai, môi trường, tài chính và khoa học công nghệ; đẩy mạnh hợp tác công – tư, nâng cao năng lực thực thi để KTTH thực sự trở thành động lực phát triển nông nghiệp xanh, hiệu quả và hội nhập quốc tế.

 

Từ những nhận định trên, tác giả đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện chính sách, pháp luật về hỗ trợ phát triển KTTH. Về lĩnh vực đất đai, cần lồng ghép tiêu chí KTTH vào quy hoạch; xây dựng “cụm tuần hoàn nông nghiệp”; hoàn thiện cơ chế tích tụ, góp vốn, thuê đất dài hạn; miễn giảm thuế, phí cho dự án tuần hoàn; minh bạch hóa, số hóa dữ liệu đất đai và tạo cơ chế giám sát hiệu quả. Về lĩnh vực môi trường, cần thể chế hóa nguyên tắc “chất thải là tài nguyên”; bắt buộc phân loại, tái sử dụng, tái chế phụ phẩm nông nghiệp; hoàn thiện EPR; xây dựng tiêu chuẩn cho phân bón, nhiên liệu sinh học tái chế; phát triển hạ tầng xử lý, tín dụng và mua sắm công xanh; nâng cao năng lực quản trị, giám sát, và hỗ trợ kỹ thuật – tài chính cho nông dân, hợp tác xã.

 

TS. Phạm Thị Hương Lan góp ý cho đề tài

 

Góp ý cho đề tài, TS. Phạm Thị Hương Lan cho rằng, đề tài cần tìm hiểu, phân tích theo nhóm chính sách, pháp luật mang tính bao quát về hỗ trợ KTTH trong nông nghiệp chứ không chỉ tìm hiểu trong Luật Đất đai và Luật Môi trường. Các mảng hỗ trợ có thể là về nhân lực, đất đai, tài chính, môi trường... Trao đổi tại tọa đàm, ThS. Ngô Vĩnh Bạch Dương gợi ý  đề tài nên tìm hiểu thêm về chính sách, pháp luật hỗ trợ KTTH thúc đẩy thị trường tín chỉ carbon, mô hình KTTH trong nông nghiệp giúp tái sử dụng phân hữu cơ từ chất thải, cải thiện chất lượng đất và cô lập carbon.

Các tin cùng chuyên mục: