Tăng tính khả thi, thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật
Luật Ban hành Văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) được Quốc hội Khóa XIII thông qua tại Kỳ họp thứ Chín, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2016 (Luật đã được sửa đổi, bổ sung một lần năm 2020) với nhiều quy định mới quan trọng trong công tác xây dựng, ban hành VBQPPL.
Phát biểu khai mạc hội thảo, Thứ trưởng Bộ Tư pháp Trần Tiến Dũng nhấn mạnh, trải qua hơn 8 năm thi hành, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020) đã góp phần quan trọng nâng cao chất lượng công tác xây dựng pháp luật, hoàn thiện thể chế ở nước ta; qua đó tạo tiền đề cho việc phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng – an ninh của đất nước. Luật đã phát huy hiệu quả, làm tăng tính khả thi, tính thống nhất, đồng bộ và kịp thời của hệ thống pháp luật; giúp quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật đi vào nền nếp ở cả Trung ương và địa phương; đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, nhất là phản ứng chính sách; hạn chế việc ban hành thủ tục hành chính; hạn chế đáng kể, kịp thời phát hiện và xử lý các vấn đề trong công tác ban hành văn bản nhờ thực hiện nghiêm, đồng bộ hơn các khâu tiền kiểm (thẩm định, thẩm tra) và hậu kiểm (kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa).
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Trần Tiến Dũng phát biểu khai mạc hội nghị
Bên cạnh những kết quả đạt được, Thứ trưởng Bộ Tư pháp Trần Tiến Dũng cũng cho biết, quá trình triển khai thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật cho thấy Luật cần được nghiên cứu sửa đổi để đáp ứng các yêu cầu phát sinh từ thực tiễn, phù hợp hơn với tình hình phát triển kinh tế - xã hội, nhất là sau đại dịch Covid -19. Đồng thời nhằm thực hiện các mục tiêu hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, hoàn thiện, đổi mới quy trình xây dựng pháp luật, xây dựng chính sách bảo đảm chuyên nghiệp, khoa học, kịp thời, khả thi, hiệu quả và các mục tiêu hoàn thiện hệ thống pháp luật được Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII nêu tại Nghị quyết số 27.
Để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, nhằm phục vụ việc nghiên cứu, xây dựng Luật, Thứ trưởng Trần Tiến Dũng cho rằng, việc tổng kết kết quả thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật kể từ khi được ban hành đến nay là rất cần thiết.
Yêu cầu cao về chất lượng
Thực tế cho thấy, Luật Ban hành VBQPPL đã tạo cơ sở pháp lý hữu hiệu cho công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật thời gian qua. Theo đó, Luật đã đổi mới căn bản việc lập Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội (trước đây là chương trình nhiệm kỳ và chương trình hàng năm nhưng hiện nay là chương trình hàng năm) với yêu cầu cao hơn về chất lượng hồ sơ. Qua đó, từng bước khắc phục tình trạng xin lùi, xin rút, nâng cao chất lượng dự án đưa vào chương trình.
Tuy vậy, các ý kiến cũng cho rằng, một số quy định của Luật cũng cần được sửa đổi để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn cuộc sống. Theo đại diện Sở Tư pháp Thái Nguyên, Luật năm 2015 chưa đưa ra khái niệm thế nào là “văn bản quy định chi tiết”, gây khó khăn trong việc rà soát, xác định văn bản quy định chi tiết đương nhiên hết hiệu lực. Trong một số trường hợp, VBQPPL của cấp trên được ban hành theo trình tự, thủ tục rút gọn, có hiệu lực ngay từ ngày ký ban hành hoặc thời gian từ lúc ký ban hành đến thời điểm có hiệu lực ngắn, dẫn tới việc xây dựng văn bản quy định chi tiết không thể kịp thời điểm có hiệu lực của VBQPPL của cấp trên. Trong khi đó các văn bản quy định chi tiết cũ về nguyên tắc hết hiệu lực theo quy định tại khoản 4 Điều 154 Luật năm 2015 nên đã tạo ra “khoảng trống pháp lý” do không có VBQPPL điều chỉnh quan hệ xã hội, gây khó khăn và rủi ro cho công tác quản lý, điều hành.
Để hoàn thiện pháp luật về xây dựng và ban hành VBQPPL, Sở Tư pháp Thái Nguyên kiến nghị, đổi mới, hoàn thiện quy trình xây dựng pháp luật, bảo đảm chuyên nghiệp, khoa học, kịp thời, khả thi, hiệu quả: quy định rõ ràng, tách bạch quy trình xây dựng chính sách với quy trình soạn thảo VBQPPL. Xây dựng bộ tiêu chí đánh giá tác động chính sách toàn diện, đa chiều, phù hợp với điều kiện thực tiễn. Tập trung phân tích tác động chính sách tới đời sống xã hội theo hướng bảo đảm cả hai nội dung định tính và định lượng, tránh đánh giá mang tính chất chung chung, thiếu cụ thể.
Đồng tình với những định hướng sửa đổi Luật, Ủy viên Thường trực Ủy ban Pháp luật Đỗ Đức Hiển cho rằng, cần tiếp tục đơn giản hóa, giảm bớt tầng nấc, thu gọn đầu mối các cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Bên cạnh đó, bổ sung các quy định điều chỉnh việc ban hành văn bản của cơ quan chính quyền địa phương nơi tổ chức chính quyền đô thị. Tăng cường cơ chế thí điểm đối với nội dung vấn đề chưa chín, chưa đủ rõ để thích ứng linh hoạt hơn với yêu cầu, diễn biến tình hình trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Nghiên cứu cải tiến cách thức đề nghị, soạn thảo, thẩm định, thẩm tra văn bản quy phạm pháp luật, làm rõ trách nhiệm của từng chủ thể tham gia vào từng công đoạn để tạo chuyển biến căn cơ trong quá trình soạn thảo văn bản.
Bộ trưởng Bộ Tư pháp Lê Thành Long phát biểu
Ghi nhận, đánh giá cao những kết quả đã đạt được, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Lê Thành Long cũng chỉ ra một số hạn chế, đó là thủ tục ban hành VBQPPL còn rườm rà, thiếu linh hoạt, trong một số trường hợp chưa ban hành kịp thời để xử lý được một số vấn đề phát sinh.
Nghị quyết số 27-NQ/TW đặt ra nhiều yêu cầu đối với công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, trong đó có việc tiếp tục nghiên cứu đổi mới quy trình xây dựng, ban hành VBQPPL. Nhấn mạnh điều này, Bộ trưởng Lê Thành Long đề nghị tiếp tục nghiên cứu đổi mới quy trình xây dựng pháp luật theo hướng chặt chẽ nhưng có độ mở, linh hoạt để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn. Làm tốt từng khâu, đặt yêu cầu cao về chất lượng, bám sát và kịp thời đáp ứng yêu cầu của thực tiễn. Nghiên cứu để đưa ra các quy định nhằm phát huy tính năng động, sáng tạo, tích cực gắn với vai trò, trách nhiệm của các chủ thể, nâng cao năng lực phản ứng chính sách, xử lý các vấn đề cấp bách phát sinh từ thực tiễn.
Cùng với đó, nâng cao vai trò và trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị, người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong xây dựng, ban hành VBQPPL, nhất là trong việc soạn thảo, thẩm định, thẩm tra, kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa, hợp nhất và tổ chức thi hành pháp luật. Tiếp tục phát huy, bảo đảm dân chủ trên cơ sở tăng cường thu hút sự tham gia rộng rãi của chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý, người dân, doanh nghiệp trong xây dựng pháp luật; bảo đảm tính tương thích với điều ước quốc tế, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong xây dựng pháp luật, Bộ trưởng Lê Thành Long nhấn mạnh.
Theo báo cáo của các bộ, cơ quan ngang bộ, tính từ ngày 1/7/2016 đến ngày 31/12/2023, tổng số VBQPPL do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ trình cơ quan có thẩm quyền và ban hành theo thẩm quyền 7.759 văn bản. Trong đó, Chính phủ đã trình Quốc hội ban hành 113 luật, 3 pháp lệnh, 32 nghị quyết; Chính phủ đã ban hành 983 nghị định; Thủ tướng Chính phủ ban hành 353 quyết định; Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ ban hành 6.184 thông tư, văn bản. Chính quyền địa phương ban hành 90.610 VBQPPL. Trong đó, cấp tỉnh ban hành 32.721 VBQPPL; cấp huyện ban hành 18.006 VBQPPL; cấp xã ban hành 39.883 VBQPPL.
(Nguồn: Báo điện tử Đại biểu nhân dân)