•  
     
  •  
     
  •  
     
  •  
     
  •  
     
LIÊN KẾT WEBSITE

Hội thảo khoa học quốc gia “Phụ nữ trong thời đại chuyển đổi số và Cách mạng công nghiệp lần thứ 4: Vai trò, cơ hội và rào cản pháp lý”

11/12/2025
Sáng ngày 8/12/2025, tại Học viện Phụ nữ Việt Nam, 70 Nguyễn Chí Thanh, Hà Nội, Học viện Phụ nữ Việt Nam phối hợp với Viện Nhà nước và Pháp luật tổ chức Hội thảo khoa học quốc gia với chủ đề “Phụ nữ trong thời đại chuyển đổi số và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư: Vai trò, cơ hội và rào cản pháp lý”. Hội thảo thu hút hơn 100 đại biểu đến từ các bộ, ngành, viện nghiên cứu, trường đại học, các tổ chức xã hội và doanh nghiệp.

PGS.TS. Trần Quang Tiến phát biểu đề dẫn hội thảo

 

Phát biểu đề dẫn hội thảo, thay mặt Học viện Phụ nữ Việt Nam, PGS.TS. Trần Quang Tiến (Giám đốc Học viện Phụ nữ Việt Nam) nhấn mạnh, chuyển đổi số đang tạo ra sự thay đổi sâu sắc trong mọi lĩnh vực của đời sống, mở ra cơ hội nhưng cũng đặt ra thách thức lớn đối với phụ nữ. Phụ nữ cần được tiếp cận tri thức mới, nâng cao năng lực số và phải được bảo vệ trước rủi ro phát sinh trong môi trường công nghệ cao. Ông cho biết, Ban Tổ chức hội thảo đã nhận được gần 130 bản tóm tắt, trong đó có 92 bài toàn văn và sau phản biện có 56 bài viết có chất lượng cao được lựa chọn để xuất bản trong Kỷ yếu. Các công trình này cung cấp luận cứ lý luận và thực tiễn phong phú, góp phần định hướng hoạch định chính sách và thúc đẩy bình đẳng giới trong bối cảnh công nghệ phát triển nhanh chóng.

 

PGS.TS. Trần Quang Tiến tin tưởng rằng các phiên thảo luận hôm nay sẽ tạo ra những trao đổi thẳng thắn, những ý tưởng sáng tạo và các gợi mở chính sách có giá trị, góp phần xây dựng khung pháp lý bảo đảm để phụ nữ Việt Nam không chỉ tham gia, mà còn có khả năng dẫn dắt tiến trình chuyển đổi số vì một xã hội số bao trùm, công bằng và nhân văn.

 

TS. Nguyễn Linh Giang, Phó Viện trưởng Viện Nhà nước và Pháp luật

 

Về phía Viện Nhà nước và Pháp luật, TS. Nguyễn Linh Giang (Phó Viện trưởng Viện Nhà nước và Pháp luật) cho rằng, chính sách chuyển đổi số hiện nay còn nhiều khoảng trống pháp lý liên quan đến bình đẳng giới. Các cơ chế bảo vệ dữ liệu cá nhân, quyền riêng tư, phòng chống quấy rối trực tuyến đối với phụ nữ chưa đầy đủ. Tình trạng lao động nữ bị ảnh hưởng bởi tự động hóa, năng lực cạnh tranh trong thị trường việc làm số còn hạn chế. Chủ đề của hội thảo đáp ứng được tính cấp thiết trong bối cảnh hiện nay khi mà những vấn đề về công nghệ số, trí tuệ nhân tạo đang xảy ra hàng ngày và tác động mạnh đến đời sống con người, đặc biệt là đến vai trò của phụ nữ trong xã hội.

 

Hội thảo này nằm trong chuỗi hoạt động hợp tác giữa Viện Nhà nước và Pháp luật và Học viện Phụ nữ Việt Nam. TS. Nguyễn Linh Giang mong muốn, trong thời gian tới hai bên tiếp tục có thêm nhiều các hoạt động hợp tác hơn nữa.

 

NCS. Phan Văn Lâm, PGS.TS. Trần Quang Tiến và TS. Nguyễn Linh Giang (từ trái sang phải)

đồng chủ trì phiên thứ nhất hội thảo

 

Hội thảo được chia làm 2 phiên, Phiên thứ nhất có chủ đề “Vai trò và vị thế của phụ nữ trong xây dựng xã hội số và thúc đẩy bình đẳng giấy”. PGS.TS. Trần Quang Tiến, TS. Nguyễn Linh Giang và NCS. Phan Văn Lâm (Phó Tổng biên tập phụ trách Tạp chí Pháp luật và Pháp triển) đồng chủ trì phiên. Mở đầu phiên là tham luận của TS. Nguyễn Linh Giang, “Vai trò của phụ nữ trong giáo dục quyền con người ở thời địa chuyển đổi số”. Giáo dục quyền con người cũng là một quyền con người, giúp cho mọi người hiểu về các quyền cơ bản của mình và trách nhiệm tôn trọng quyền của người khác. Phụ nữ, với các thiên chức tự nhiên của mình, cùng với sự nhạy cảm giới, đã đóng vai trò quan trọng trong giáo dục quyền con người ở thời đại chuyển đổi số. Thông qua các vai trò khác nhau trong giáo dục quyền con người, phụ nữ đã giúp nâng cao nhận thức của xã hội về bình đẳng, chống bạo lực và bảo vệ các quyền cá nhân. Bài viết tập trung vào phân tích vai trò của phụ nữ trong giáo dục quyền con người ở thời đại chuyển đổi số, chỉ ra các rào cản và thách thức trong quá trình khẳng định vai trò này trên thực tế và từ đó đưa ra một số kiến nghị để xóa bỏ các rào cản và hoàn thiện khung chính sách pháp luật bảo đảm bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục quyền con người.

 

Một trong số các kiến nghị mà TS. Nguyễn Linh Giang đề xuất là việc cần thúc đẩy phụ nữ lãnh đạo trong lĩnh vực giáo dục và xây dựng chính sách về giáo dục quyền con người. Nhà nước cần có chính sách tăng tỷ lệ phụ nữ giữ vị trí lãnh đạo trong lĩnh vực giáo dục, truyền thông và công nghệ thông tin, vì đây là những kênh quan trọng lan tỏa giá trị nhân quyền. Cần đưa tiêu chí bình đẳng giới vào quy hoạch cán bộ quản lý trường học, cơ quan truyền thông và cơ sở nghiên cứu.

 

Tiếp theo, hội thảo lắng nghe tham luận “Quyền chính trị của phụ nữ trong pháp luật Việt Nam” của TS. Trần Thị Bình (Học viện Báo chí và Tuyên truyền). Bài viết trình bày khái quát về quyền chính trị và quyền chính trị của phụ nữ; việc ghi nhận, bảo vệ quyền chính trị của phụ nữ trong luật phong kiến và quy định pháp luật sau ngày Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Mặc dù quyền chính trị của phụ nữ đã được ghi nhận, bảo vệ trong các văn bản pháp luật mà trước hết là Hiến pháp, được cụ thể hóa và đảm bảo trong Luật và các văn bản dưới luật có liên quan, tuy nhiên vẫn tồn tại một số hạn chế.

 

TS. Trần Thị Bình trình bày tham luận của mình

 

Một trong những hạn chế có thể kể đến là các văn bản quy định về quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị dù đã xuất hiện trong cả Hiến pháp và Luật liên quan, nhưng việc quy định còn rời rạc, tản mạn trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau. Ngoài Luật Bình đẳng giới đề cập trực tiếp đến bảo vệ quyền chính trị phụ nữ thì quyền này còn quy định tương đối rõ ràng trong Luật Bầu cử, còn các Luật khác nhìn chung chỉ dừng ở nguyên tắc không phân biệt đối xử và hiện cũng rất ít các chính sách quy định về bình đẳng giới và bảo vệ, thực hiện quyền chính trị của phụ nữ.

 

Sau khi phân tích, chỉ ra hạn chế trong ghi nhận, bảo vệ quyền chính trị của phụ nữ tại quy định pháp luật hiện hành, TS. Trần Thị Bình đề xuất một số kiến nghị để khắc phục:

  • Khẩn trương nghiên cứu bổ sung, sửa đổi hoặc thay thế Luật Bình đẳng giới và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan, bảo đảm phù hợp với Hiến pháp;
  • Tiếp tục coi hoạt động thẩm định về giới là một trong các yêu cầu bắt buộc khi đánh giá chính sách về pháp luật trong quy trình lập pháp, lập quy
  • Cần đưa ra những định hướng, quy định cụ thể đối với bình đẳng giới trong Luật Bầu cử chứ không dừng ở việc quy định chung;
  • Cần tăng cường công tác báo cáo, thanh tra, giám sát, xử lý vi phạm trong việc thực hiện chính sách, pháp luật liên quan đến vấn đề phụ nữ, bình đẳng giới;
  • Cần hoàn thiện tiêu chí đánh giá việc thực hiện bình đẳng giới, đặc biệt các tiêu chí liên quan đến ghi nhận và thực hiện quyền chính trị và tăng cường hiệu quả trong khai thác các dữ liệu theo các chỉ tiêu này.       

Tham luận cuối phiên có chủ đề “Nữ lãnh đạo thời đại công nghiệp 4.0 và bình đẳng giới nơi làm việc” của PGS.TS. Dương Kim Anh (Học viện Phụ nữ Việt Nam) và TS. Nguyễn Thị Tố Uyên (Trường Đại học Ngoại thương). Trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ số, trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn và Internet kết nối vạn vật (IoTs) làm thay đổi căn bản cấu trúc kinh tế, xã hội và môi trường lao động. Đây vừa là cơ hội, vừa đặt ra nhiều thách thức mới cho phụ nữ nói chung và nữ lãnh đạo nói riêng. Sử dụng số liệu thứ cấp, bài viết phân tích vai trò, vị thế và những đóng góp nổi bật của phụ nữ trong đổi mới sáng tạo, quản trị tổ chức, đồng thời chỉ ra các rào cản giới, khác biệt giới trong tiếp cận nguồn lực, cơ hội đào tạo và thăng tiến.

 

Bài viết cho thấy, nâng cao quyền năng cho phụ nữ trong thời đại công nghiệp 4.0 không chỉ giúp phát huy tiềm năng lãnh đạo, mà còn là động lực thúc đẩy phát triển bền vững và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Việc trao quyền cho phụ nữ tại nơi làm việc góp phần bảo đảm quyền con người, phát huy sức sáng tạo, gia tăng hiệu quả quản trị và giá trị tổ chức. Khi có cơ hội tiếp cận công nghệ, tri thức và các nguồn lực phát triển một cách bình đẳng, phụ nữ sẽ trở thành lực lượng quan trọng trong việc thúc đẩy đổi mới và thích ứng nhanh với các xu thế toàn cầu. Bài viết đưa ra một số khuyến nghị thực tiễn, trong đó có việc các cơ quan, tổ chức áp dụng các nguyên tắc trao quyền cho phụ nữ tại nơi làm việc (WEPs). Bài viết nhấn mạnh rằng, nữ lãnh đạo thời đại công nghiệp 4.0 cần được nhìn nhận như lực lượng tiên phong, dẫn dắt sự thay đổi, góp phần xây dựng xã hội công bằng, sáng tạo và thịnh vượng hơn.

 

Toàn cảnh hội thảo

 

Thảo luận tại phiên này, PGS.TS. Đinh Dũng Sỹ đặt câu hỏi về thách thức nào là riêng có được đặt ra đối với phụ nữ trong bối cảnh chuyển đổi số? Theo TS. Nguyễn Thị Tố Uyên, hiện nay có hai thách thức lớn nhất mà phụ nữ thường gặp là trình độ và định kiến, nhất là với người ở miền núi, vùng sâu, vùng xa. Yếu tố trình độ bao gồm trình độ học vấn, trình độ số, năng lực số, kỹ năng số. Chúng ta mới bắt đầu bước vào câu chuyện chuyển đổi số nhưng trình độ, năng lực học vấn để bắt kịp với yêu cầu của chuyển đổi số thì còn chậm nên có sự vênh giữa mục tiêu đề ra và khả năng đang có. Bên cạnh đó, phụ nữ vẫn có tâm lý tự ti, không dám nghĩ, dám làm và dễ chấp nhận vị trí, vai trò của mình trong khuôn phép gia đình.

 

Sau đó, hội thảo diễn ra phiên thứ hai với chủ đề “Hoàn thiện hành lang pháp lý nhằm bảo vệ và tạo điều kiện cho phụ nữ trong thời đại chuyển đổi số”. TS. Hoàng Kim Khuyên thay mặt TS. Phạm Thị Thúy Nga trình bày tham luận “Xây dựng và hoàn thiện pháp luật bảo vệ dữ liệu cá nhân gắn với quyền riêng tư của phụ nữ trong môi trường số”. Bài viết phân tích mối quan hệ giữa bảo vệ dữ liệu cá nhân, quyền riêng tư và bình đẳng giới trong bối cảnh chuyển đổi số, nhấn mạnh phụ nữ và trẻ em gái là nhóm vừa được hưởng lợi từ môi trường số, vừa dễ bị tổn thương trước các rủi ro xâm phạm dữ liệu và bạo lực giới trực tuyến. Trên cơ sở tiếp cận quyền con người có lồng ghép giới, kết hợp phương pháp phân tích – so sánh pháp luật và nghiên cứu tài liệu thứ cấp trong nước, quốc tế, tham luận trước hết làm rõ một số vấn đề lý luận về pháp luật bảo vệ dữ liệu cá nhân gắn với quyền riêng tư của phụ nữ, đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam hiện hành từ lăng kính bảo vệ phụ nữ, chỉ ra những tiến bộ bước đầu nhưng cũng nêu bật các khoảng trống về nhận diện dữ liệu nhạy cảm, quyền được lãng quên, quyền kiểm soát hình ảnh và cơ chế bảo vệ nạn nhân nữ.

 

Khung pháp luật hiện hành của Việt Nam vẫn còn một số hạn chế khi nhìn từ lăng kính bảo vệ phụ nữ. Thứ nhất, các quy định về bảo vệ dữ liệu cá nhân và quyền riêng tư vẫn còn phân tán ở nhiều đạo luật, nghị định, thông tư, khiến việc áp dụng trong các tình huống cụ thể (như bạo lực giới trên mạng, lộ lọt hình ảnh nhạy cảm của phụ nữ) thiếu sự rõ ràng và nhất quán. Thứ hai, nhiều quy định vẫn thiên về mục tiêu an ninh mạng, trật tự, an toàn xã hội và quản lý nhà nước hơn là nhấn mạnh góc độ quyền con người, quyền phụ nữ và các nhóm dễ bị tổn thương. Cách thiết kế quy phạm thường coi mọi chủ thể dữ liệu là tương đồng, chưa phản ánh đầy đủ những rủi ro riêng về giới như bạo lực trên mạng, quấy rối, “trả thù bằng hình ảnh” hay việc khai thác dữ liệu về sức khỏe sinh sản, đời sống tình dục, tình trạng là nạn nhân bạo lực gia đình… của phụ nữ. Thứ ba, pháp luật hiện hành chưa có quy định chuyên biệt về dữ liệu nhạy cảm gắn với giới của phụ nữ.

 

Từ đó, bài viết gợi ý một số định hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam theo hướng lồng ghép giới, tiếp cận quản lý rủi ro công nghệ và tăng cường các cơ chế như quyền được lãng quên, quyền kiểm soát hình ảnh, bảo vệ dữ liệu nhạy cảm về giới.

 

TS. Kiều Thị Thu Linh (giữa) và PGS.TS. Đinh Dũng Sỹ (bên phải)

 

Hội thảo tiếp tục lắng nghe TS. Kiều Thị Thùy Linh (Học viện Phụ nữ Việt Nam) trình bày tham luận “Phụ nữ tham gia hợp đồng điện tử trên thương mại số - Thách thức pháp lý và giải pháp hoàn thiện”. Bước vào kỷ nguyên số, dường như mọi lĩnh vực của đời sống có thêm một cuộc sống mới - đó là cuộc sống trên nền tảng mạng và lĩnh vực thương mại cũng không nằm ngoài xu thế này. Trong lĩnh vực thương mại số, sự ra đời và áp dụng phổ biến của hợp đồng điện tử đã giải quyết rất nhiều vấn đề, trong đó là sự tiện lợi, phù hợp và đảm bảo quyền lợi các bên khi tham gia giao dịch trên nền tảng số. Tuy nhiên, cũng nhiều vấn đề được đặt ra, đặc biệt khi nhìn nhận ở góc độ bảo vệ quyền lợi phụ nữ khi tham gia vào hợp đồng điện tử. Thông qua việc nghiên cứu nhiều tài liệu liên quan, sử dụng phương pháp so sánh pháp luật, phân tích, đánh giá, tổng hợp, tác giả tìm ra những thách thức pháp lý liên quan như việc nữ doanh nhân sử dụng hợp đồng thương mại điện tử hoặc những định kiến giới trong hợp đồng điện tử, những rủi ro về bảo mật, về trách nhiệm bên trung gian… liên quan đến bảo vệ quyền lợi của phụ nữ.

 

Để bảo vệ tốt hơn quyền của phụ nữ khi tham gia hợp đồng điện tử trên thương mại số, một số vấn vấn đề pháp lý cần được hoàn thiện cụ thể như sau: (i) Bổ sung nguyên tắc nhạy cảm giới trong các Luật Giao dịch điện tử hoặc Luật thương mại; (ii) Trong các quy định pháp luật về bình đẳng giới (trong đó có Luật Bình đẳng giới) phải ghi nhận cụ thể về chính sách, khung pháp lý để đào tạo về kỹ năng số cho phụ nữ; (iii) Thiết lập và xây dựng cơ chế giải quyết tranh chấp trực tuyến mang tính thân thiện giới; (iv) Bổ sung quy định về bảo vệ dữ liệu cá nhân có tính nhạy cảm giới.

 

TS. Đoàn Xuân Trường với tham luận về đào tạo nghề cho lao động nữ trước tác động của trí tuệ nhân tạo

 

Tham luận cuối hội thảo là của TS. Đoàn Xuân Trường (Trường Đại học Luật Hà Nội) có chủ đề “Pháp luật về đào tạo nghề cho lao động nữ trước tác động của trí tuệ nhân tạo”. Từ việc nghiên cứu các quy định pháp luật hiện hành, so sánh với các tiêu chuẩn lao động quốc tế như Công ước số 111, 122, 142 của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) và Công ước CEDAW; kết hợp nghiên cứu trường hợp một số quốc gia có chính sách tiên tiến về đào tạo nghề cho phụ nữ khi chuyển đổi công nghệ, kết quả nghiên cứu cho thấy pháp luật Việt Nam đã có những quy định cơ bản về đào tạo nghề và bình đẳng giới, song còn thiếu các quy định cụ thể nhằm bảo vệ nhóm lao động nữ chịu tác động trực tiếp từ trí tuệ nhân tạo (AI). Các cơ chế hỗ trợ tài chính, hình thức đào tạo linh hoạt và nghĩa vụ của doanh nghiệp trong đào tạo lại chưa được thiết kế đầy đủ và hiệu quả.

 

Tác giả cho rằng, việc hoàn thiện pháp luật cần tập trung vào các giải pháp: Xây dựng chính sách ưu tiên đào tạo nghề cho lao động nữ trong các ngành có nguy cơ tự động hóa cao; tăng cường hỗ trợ tài chính và hạ tầng số cho hoạt động đào tạo; bổ sung nghĩa vụ đào tạo lại đối với doanh nghiệp áp dụng ai và thiết lập cơ chế giám sát bảo đảm bình đẳng giới trong hệ thống đào tạo nghề ứng dụng công nghệ. Những giải pháp này sẽ góp phần nâng cao năng lực thích ứng của lao động nữ, bảo đảm quyền việc làm và thúc đẩy bình đẳng giới trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0.

 

TS. Lê Văn Sơn (Học viện Phụ nữ Việt Nam) chia sẻ với quan điểm của TS. Kiều Thị Thùy Linh khi hiện nay với mỗi cá nhân không chỉ phụ nữ không biết ai đang theo dõi và bảo vệ dữ liệu cá nhân trên không gian mạng. Cần phải có nhóm giải pháp chặt chẽ để bảo vệ dữ liệu cá nhân này. Trao đổi về giải pháp AI thay thế con người thì TS. Đặng Xuân Trường cho rằng, có một số ngành, nghề AI chưa thể thay thế được con người như nghề massage chẳng hạn. Trong khi đó, theo kháo sát ở Mỹ, ngành luật là một trong những ngành bị mất việc làm nhiều nhất bởi AI. Ở một số quốc gia đã có luật sư là robot tranh tụng tại tòa.

 

Các đại biểu tham dự hội thảo chụp ảnh kỷ niệm

 

Hội thảo cũng thu nhận những ý kiến trao đổi, thảo luận của các đại biểu, nhà khoa học về các vấn đề khác liên quan đến chủ đề của hội thảo.

 

Phát biểu kết thúc chương trình, đại diện Ban Tổ chức nhấn mạnh, dù thời gian hội thảo chỉ kéo dài trong một buổi sáng, nhưng những nội dung đặt ra có ý nghĩa lâu dài cho nghiên cứu và hoạch định chính sách. Ban Tổ chức sẽ tiếp tục tổng hợp các ý kiến thảo luận, đề xuất, kiến nghị tại hội thảo để hoàn thiện báo cáo gửi cơ quan chức năng.

Các tin cùng chuyên mục: