Chủ trì buổi tọa đàm là TS. Lê Thương Huyền, Phó Trưởng phòng Phòng Lý luận – Luật Hiến pháp – Luật Hành chính. Đề tài đầu tiên báo cáo kết quả nghiên cứu có chủ đề “Nguồn pháp luật ở Việt Nam hiện nay” do TS. Phan Thanh Hà là chủ nhiệm và các thành viên gồm TS. Trương Vĩnh Khang, ThS. Cao Việt Thăng, ThS. Nguyễn Thanh Tùng. Về phạm vi nghiên cứu, TS. Phan Thanh Hà cho biết, đề tài tập trung phân tích, đánh giá một số loại nguồn cơ bản của pháp luật như văn bản quy phạm pháp luật, tập quán pháp, tiền lệ pháp. Bên cạnh đó, cũng có những sự tìm hiểu, bình luận về một số loại nguồn luật mới xuất hiện ở Việt Nam trong thực tiễn áp dụng pháp luật đồng thời đề tài cũng hướng tới những loại nguồn đặt dưới góc độ lý luận chung về nhà nước và pháp luật mà không đi sâu vào các loại nguồn pháp luật chuyên ngành.
Cấu trúc của đề tài gồm 03 phần:
- Những vấn đề lý luận về nguồn pháp luật;
- Thực trạng nguồn pháp luật ở Việt Nam hiện nay;
- Nhu cầu, giải pháp hoàn thiện nguồn pháp luật ở Việt Nam hiện nay.
Về mặt khái niệm, TS. Phan Thanh Hà cho rằng, ngày nay nguồn pháp luật cần phải được hiểu theo nghĩa rộng, không chỉ bao gồm hình thức thể hiện mà còn bao hàm các yếu tố nội dung, trong đó bao gồm cơ sở kinh tế, chính trị, đạo đức, công bằng cũng như quan điểm, đường lối của Đảng. Đây là các nhân tố chi phối định hướng đến việc xây dựng và thực thi pháp luật. Trong đó, nguồn hình thức đóng vai trò thể chế hóa, đưa các yếu tố, nội dung đó thành các quy tắc, xử sự có hiệu lực bắt buộc. Như vậy, có thể khẳng định nguồn của pháp luật chỉ là hình thức chứa đựng và thể hiện các quy phạm pháp luật đã không còn đầy đủ nữa trong mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức của pháp luật.
Hiện nay, các quan điểm, đường lối của Đảng đóng vai trò định hướng, chỉ đạo trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nhiều nghị quyết, chỉ thị của Đảng là cơ sở chính trị, pháp lý để Quốc hội, Chính phủ ban hành luật, văn bản quy phạm pháp luật tương ứng, chẳng hạn như Nghị quyết số 49-NQ/TW năm 2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp, Nghị quyết số 27-NQ/TW năm 2022 về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới và mới đây là Nghị quyết số 66-NQ/TW năm 2025 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu pháp triển đất nước trong kỷ nguyên mới… Có thể nhìn nhận, văn bản của Đảng không trực tiếp có hiệu lực pháp lý đối với công dân, tổ chức nhưng lại có vai trò quyết định trong việc hình thành nội dung của pháp luật vì thế cần coi đó là nguồn pháp luật nội dung.
Về mặt lịch sử, TS. Trương Vĩnh Khang đã tổng hợp quá trình hình thành, phát triển nguồn luật từ năm 1945 đến nay với 4 giai đoạn. Trong đó, giai đoạn 1945 - 1954 là quá trình hình thành nền móng pháp luật cách mạng với các loại nguồn luật được hình thành một cách linh hoạt để đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn cách mạng, phương thức thể hiện là các sắc lệnh của Chủ tịch nước, Hiến pháp, áp dụng có điều kiện các luật lệ cũ, sự hình thành án lệ và kinh nghiệm xét xử. Giai đoạn 1975 – 1986 là giai đoạn thống nhất và chuyển đổi cơ chế, là thời kỳ bùng nổ của hoạt động lập pháp từ sau Hiến pháp 1980 khi Quốc hội đã ban hành 40 bộ luật, Hội đồng Nhà nước ban hành 59 sắc lệnh. Đây là giai đoạn mặc dù có một số bộ luật đầu thời kỳ còn phản ánh tư duy giáo điều, duy ý chí và sớm lạc hậu trước yêu cầu đổi mới nhưng vào những năm sau đó Quốc hội đã ban hành những đạo luật có tư duy mới với cơ chế quản lý đột phá so với Hiến pháp 1980.
Về thực trạng áp dụng, ThS. Nguyễn Thanh Tùng tập trung phân tích, đánh giá thực tiễn sôi động trong nhận thức, lý luận và thực tiễn ở Việt Nam về nguồn pháp luật từ sau Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 thông qua việc tìm hiểu, chỉ ra những mặt tích cực, hạn chế, vướng mắc, tính khả thi trong áp dụng một số nguồn pháp luật sau: văn bản quy phạm pháp luật, tập quán pháp, án lệ và một số loại nguồn khác đang dần được quan tâm trong bối cảnh yêu cầu đa dạng hóa nguồn pháp luật ở nước ta.
Trong đó, với án lệ, số lượng còn ít nên chưa đáp ứng được nhu cầu xét xử, nhiều thẩm phản chưa quen áp dụng. Thường chỉ dùng để giải quyết một phần vấn đề pháp lý, chứ ko phải toàn bộ vụ án, có tình trạng vận dụng nhưng không viện dẫn trực tiếp. Nhìn chung, án lệ hiện chỉ đóng vai trò hỗ trợ, chưa trở thành công cụ lập luận pháp lý chính thức. Vậy nguyên nhân của những hạn chế này là gì? Đó là tính bắt buộc chưa rõ ràng, khi Nghị quyết 04/2019/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán chỉ yêu cầu “nghiên cứu, áp dụng” án lệ, nếu không áp dụng thì nêu lý do. Việc này gây ra tình trạng áp dụng một cách hình thức, thiếu linh hoạt; phạm vi “tình huống tương tự” chưa thống nhất. Một nguyên nhân chính nữa là quy trình lựa chọn, công bố án lệ còn chậm khi chủ yếu chọn từ quyết định giám đốc thẩm, bỏ qua bán án cấp dưới, thời gian công bố thông thường phải trên 1 năm.
Trình bày về giải pháp hoàn thiện nguồn pháp luật Việt Nam, ThS Cao Việt Thăng cho rằng, Quốc hội cần tiếp tục mở rộng hơn nữa các chủ thể từ xã hội tham gia vào hoạt động lập pháp. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh áp dụng tập quán trong xử lý các mâu thuẫn, các mối quan hệ sẽ giúp xã hội hài hòa hơn và có thể đạt hiệu quả cao hơn so với áp dụng văn bản luật. ThS. Cao Việt Thăng cũng đưa ra những giải pháp liên quan đến nguồn luật quốc tế và các học thuyết pháp lý.
Bình luận về đề tài, ThS. Ngô Vĩnh Bạch Dương cho rằng, Tòa án mà cụ thể là các thẩm phán sử dụng các học thuyết pháp lý để xác định quyền và nghĩa vụ của các bên là việc áp dụng pháp luật mà đó cũng được hiểu là nguồn luật. Nói tóm lại, những gì được cơ quan áp dụng pháp luật dùng để xác định quyền và nghĩa vụ của các bên thì được coi là nguồn luật. Theo TS. Phạm Thị Hương Lan, trong bối cảnh hiện nay, đề tài nên nhìn nhận chính sách pháp luật cũng là một loại nguồn của pháp luật. Bên cạnh đó, TS. Hương Lan dẫn chứng trên thực tế, ngoài luật, nghị định, thông tư thì còn một loại văn bản là các quyết định của địa phương, chẳng hạn về lĩnh vực đất đai môi trường. Các quyết định này là các văn bản hướng dẫn dùng để áp dụng trên thực tiễn ở địa phương đó.
Đề tài cũng thu nhận những ý kiến trao đổi, thảo luận của PGS.TS. Dương Quỳnh Hoa, TS. Phạm Thị Thúy Nga, TS. Lê Thương Huyền về những vấn đề như: Nguồn luật mới được hình thành trong môi trường số như hợp đồng thông minh, thuật toán trên nền tảng blockchain; đánh giá mối quan hệ giữa các nguồn luật trong việc hỗ trợ và áp dụng trên thực tế; nguyên tắc, thứ tự áp dụng nguồn luật…
Đề tài thứ hai trình bày kết quả nghiên cứu có chủ đề “Phân cấp, phân quyền và ủy quyền trong quản lý nhà nước ở Việt Nam hiện nay” do ThS. Mai Thị Minh Ngọc là chủ nhiệm, ThS. Nguyễn Lê Dân là thành viên. Từ những cách diễn giải trong khoa học và căn cứ pháp luật thực định ở nước ta, đề tài đã đưa ra các khái niệm về phân quyền, phân cấp và ủy quyền. Theo đó, phân quyền là việc Quốc hội bằng luật, nghị quyết của Quốc hội giao cho các cấp chính quyền có tư cách pháp nhân, có những quyền hạn và những nguồn lực nhất định thực hiện một phạm vi công việc theo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm, dưới sự kiểm tra của Nhà nước.
Phân cấp trong quản lý nhà nước là sự phân định thẩm quyền quản lý giữa các cấp chính quyền. Trong đó, chính quyền cấp trên chuyển giao cho chính quyền cấp dưới, cơ quan nhà nước cấp dưới thực hiện một cách thường xuyên, liên tục một hay một số nhiệm vụ, quyền hạn thuộc thẩm quyền của mình bằng cách ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Trong quản lý nhà nước ở Việt Nam, ủy quyền là việc một cơ quan, tổ chức hoặc người có thẩm quyền giao một phần hoặc toàn bộ nhiệm vụ, quyền hạn của mình cho một cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc cá nhân khác thực hiện trong một khoảng thời gian xác định. Việc ủy quyền phải được thể hiện bằng văn bản và người ủy quyền vẫn chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện công việc được giao.
Đề tài đã chỉ ra các nguyên tắc trong phân quyền, phân cấp, ủy quyền trong quản lý nhà nước ở Việt Nam đó là: (i) Đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng; (ii) Pháp quyền xã hội chủ nghĩa; (iii) Tập trung dân chủ; (iv) Hiệu quả; (v) Cân đối, phù hợp; (vi) Đảm bảo cơ chế kiểm tra, giám sát hữu hiệu, nghiêm minh.
Hiến pháp năm 2013 tuy không sử dụng thuật ngữ phân quyền, nhưng tư tưởng, quan điểm phân quyền giữa các cơ quan cao nhất của quyền lực nhà nước được thể hiện trong những quy định về địa vị chính trị - hiến pháp của các cơ quan nhà nước. Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 lần đầu tiên đã chính thức sử dụng thuật ngữ phân quyền. Hiện nay, vấn đề phân quyền, phân cấp và ủy quyền được quy định trong Luật Tổ chức Chính phủ năm 2025 và Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2025. Trong đó, Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2025 (Luật số 65/2025/QH15) quy định 01 chương riêng về phân định thẩm quyền, phân quyền, phân cấp, uỷ quyền giữa chính quyền địa phương các cấp với các điểm mới về nguyên tắc: phân định thẩm quyền (Điều 11); phân quyền (Điều 12); phân cấp (Điều 13); ủy quyền (Điều 14).
Ngày 16/6/2025, Quốc hội ban hành Luật Tổ chức chính quyền địa phương (Luật số 72/2025/QH15) thay thế Luật số 65/2025/QH15. Điểm mới Luật số 72/2025/QH15 là tăng quyền phân cấp, ủy quyền của UBND cấp tỉnh và Chủ tịch UBND cấp tỉnh. Theo đó, UBND cấp tỉnh được phân cấp, ủy quyền cho UBND cấp xã (với một số điều kiện) và Chủ tịch UBND cấp tỉnh được quyết định điều chỉnh quy trình, thủ tục hành chính để bảo đảm thực hiện hiệu quả việc ủy quyền, phân cấp.
Đề tài nhìn nhận, trong thời gian qua, việc thực hiện các quy định pháp luật về phân quyền, phân cấp và uỷ quyền đã đạt được những kết quả quan trọng và tạo ra những chuyển biến tích cực trong hoạt động của trung ương và chính quyền địa phương. Nhiều thủ tục hành chính được bộ, ngành trung ương phân quyền, phân cấp cho địa phương giải quyết đã góp phần giảm bớt gánh nặng chi phí, thời gian, khâu trung gian, phục vụ kịp thời hơn, tốt hơn cho các cá nhân, tổ chức. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, từ quy định pháp luật và thực tiễn thực hiện, việc phân quyền, phân cấp và uỷ quyền trong quản lý hành chính nhà nước vẫn còn một số vướng mắc, bất cập sau:
- Hệ thống văn bản pháp luật về phân quyền, phân cấp, uỷ quyền trong quản lý nhà nước còn chưa đồng bộ;
- Không gian tự quyết của địa phương được mở rộng nhưng cơ chế để chính quyền địa phương triển khai vì lợi ích người dân dù đã được cải thiện nhưng chưa tương xứng;
- Thiếu cán bộ công chức xã có năng lực chuyên môn phù hợp, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ thông tin;
- Vấn đề về thanh tra, kiểm soát, kiểm tra việc thực hiện phân quyền, phân cấp, uỷ quyền còn thiếu chặt chẽ. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chưa thực hiện tốt chức năng giám sát, phản biện xã hội;
- Quyền làm chủ của người dân trên một số lĩnh lĩnh vực chưa thật bảo đảm, chưa có cơ chế và biện pháp khắc phục triệt để.
Từ những bất cập, hạn chế nêu trên, đề tài đã đưa ra quan điểm và đề xuất giải pháp hoàn thiện phân quyền, phân cấp, ủy quyền trong quản lý nhà nước ở Việt Nam hiện nay. Có thể kể đến một số giải pháp, cụ thể như: Đảm bảo nguồn tài chính - ngân sách phù hợp với yêu cầu phân quyền, phân cấp và ủy quyền trong quản lý nhà nước ở Việt Nam hiện nay; Kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức đáp ứng yêu cầu phân quyền, phân cấp và ủy quyền trong quản lý nhà nước ở Việt Nam hiện nay; Tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật về phân cấp, phân quyền và ủy quyền...
Bình luận về đề tài này, TS. Phạm Thị Thúy Nga cho rằng, nói đến vấn đề phân cấp, phân quyền, ủy quyền là nói đến quyền lực và kiểm soát quyền lực. Khi bộ máy chính quyền giảm còn 2 cấp thì quyền lực sẽ tập trung nhiều hơn vào cấp tỉnh, người dân khó tiếp cận quyền của mình hơn so với trước đây. Đây là những vấn đề mà đề tài cần luận giải, cũng như đánh giá xem việc phân cấp, phân quyền, ủy quyền có hiệu quả hay không.
Góp ý cho đề tài, theo TS. Lê Thương Huyền, trong phần giải pháp hoàn thiện phân quyền, phân cấp, ủy quyền trong quản lý nhà nước, đề tài nên đưa ra ý tưởng cụ thể theo phạm vi với các mức từ trung ương đến địa phương ở cấp tỉnh đến cấp xã.