•  
     
  •  
     
  •  
     
  •  
     
  •  
     
LIÊN KẾT WEBSITE

Hội thảo quốc tế “Cơ quan nhân quyền quốc gia – Kinh nghiệm của các nước ASEAN”

30/04/2015
Trong 02 ngày, 22 - 23/04/2015, Viện Nhà nước và Pháp luật, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam phối hợp với Chương trình Nhà nước pháp quyền Châu Á của Viện KAS, CHLB Đức tổ chức Hội thảo khoa học quốc tế về chủ đề “Cơ quan nhân quyền quốc gia – Kinh nghiệm của các nước ASEAN” tại khách sạn Hotel de l’Opera, 29 phố Tràng Tiền, Hà Nội.

Hội thảo trân trọng đón nhận sự tham gia của các đại biểu và nhà khoa học nước ngoài gồm có: Ông Thẩm phán Marc Spitzkatz, Giám đốc Chương trình Nhà nước pháp quyền Châu Á, Viện KAS, CHLB Đức; Bà Rabea Brauer, Trưởng đại diện Văn phòng Viện KAS, CHLB Đức tại Hà Nội; Ông Luật sư Mah Weng Kwai (Malaysia); Bà GS.TS. Sripraphat Petcharamesree, Đại học Mahidol, Bangkok (Thái Lan); Bà Michelle Ruby Kelsall, Phó Giám đốc Trung tâm Nhân quyền Campuchia; Bà Roichtul Awidah, Phó  Giám đốc Cơ quan Nhân quyền Indonesia và GS. Harry Roque, Đại học Philippines.  

 

Thẩm phán Marc Spitzkatz - Giám đốc Chương trình Nhà nước pháp quyền Châu Á.

 

Các nhà quản lý, các nhà khoa học đến từ Văn phòng Quốc hội, Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Đại học Luật Hà Nội, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội cũng như từ các cơ quan trung ương và địa phương khác đến dự và tham gia trao đổi, thảo luận tại Hội thảo.

 

Phát biểu khai mạc Hội thảo, PGS.TS. Nguyễn Như Phát, Viện trưởng Viện Nhà nước và Pháp luật khẳng định: Hiến pháp 2013 ra đời là một bước tiến lớn trong chủ nghĩa lập hiến ở Việt Nam, trong đó nổi bật nhất là việc ghi nhận và cam kết của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam về việc bảo đảm, bảo vệ quyền con người. Để những quy định về quyền con người được thực hiện trong cuộc sống thì một trong những việc cần làm là phải có những thiết chế đủ mạnh tổ chức thực thi và giám sát việc thực hiện quyền con người. Vì vậy, Hội thảo này được tổ chức để giúp các nhà khoa học trong nước tìm hiểu, học hỏi kinh nghiệm từ các đại biểu quốc tế về mô hình, cách thức hoạt động của cơ quan nhân quyền trong các nước ASEAN.

 

Mở đầu Hội thảo là tham luận của PGS.TS. Phạm Hữu Nghị, Viện Nhà nước và Pháp luật với chủ đề “Những thành tựu về bảo đảm, thúc đẩy quyền con người bằng cơ chế quốc gia ở Việt Nam”. PGS.TS. Phạm Hữu Nghị chỉ ra 6 yếu tố hiện thời để bảo đảm, thúc đẩy quyền con người ở Việt Nam, đó là:

-          Tham gia các điều ước quốc tế về quyền con người;

-          Ghi nhận các quyền con người và tạo ra cơ chế pháp lý về bảo vệ quyền con người trong hệ thống pháp luật quốc gia;

-          Các cơ quan, tổ chức có vai trò, chức năng, nhiệm vụ thực hiện, bảo đảm, thúc đẩy quyền con người ở Việt Nam;

-          Hợp tác với các cơ quan, tổ chức quốc tế về quyền con người;

-          Nhận thức về quyền con người;

-          Giáo dục, đào tạo về quyền con người ở Việt Nam.

 

Trong thời gian sắp tới, Việt Nam tiếp tục tăng cường công tác kiện toàn hệ thống pháp luật trên nguyên tắc phát huy nhân tố con người, bảo đảm thực hiện tốt hơn các quyền và tự do cơ bản của người dân, đảm bảo hệ thống pháp luật quốc gia hài hòa và phù hợp với các chuẩn mực quốc tế. Chính phủ Việt Nam nỗ lực đẩy mạnh các chương trình cải cách hành chính nhằm ngăn chặn, đẩy lùi tệ quan liêu, tham nhũng, phát huy dân chủ và nâng cao hiệu lực của Nhà nước pháp quyền, tăng cường các thiết chế quốc gia bảo vệ quyền con người trong đó có việc nghiên cứu khả năng thành lập cơ quan nhân quyền quốc gia.

 

Bình luận về các yếu tố bảo đảm, thúc đẩy quyền con người, PGS.TS. Tường Duy Kiên – Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, cho rằng việc tuyên truyền, giáo dục, đào tạo quyền con người tại Việt Nam đang được thực hiện bài bản và có lộ trình với các cơ sở đào tạo trình độ thạc sĩ, tiến sĩ về quyền con người. Ngoài ra, đào tạo quyền con người cho đội ngũ lãnh đạo, nhà quản lý tại các cơ quan của Đảng, Chính phủ và các cơ quan nhà nước khác là một môn học bắt buộc tại Học viện Chính trị Quốc gia. 

 

 

Theo tài liệu chuyên đề số 19 của Liên hợp quốc, Cơ quan nhân quyền quốc gia (NHRIs) được hiểu là một cơ quan được giao những chức năng cụ thể trong việc thúc đẩy và bảo vệ quyền con người. Một định nghĩa cụ thể hơn được đưa ra bởi Văn phòng Cao ủy Nhân quyền LHQ đó là: “Cơ quan nhân quyền quốc gia là những cơ quan nhà nước có thẩm quyền hiến định và/hoặc luật định trong việc bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người. Các có quan này là một phần của bộ máy nhà nước và được Nhà nước cung cấp kinh phí hoạt động”. Việc thành lập và hoạt động của NHRIs phải tuân thủ các Nguyên tắc Paris, mà một trong những nguyên tắc quan trọng nhất là phải có tính độc lập với các cơ quan nhà nước khác và có sự tham gia của đại diện nhiều thành phần và nhóm xã hội khác nhau.

 

Giới thiệu về Ủy ban nhân quyền quốc gia Malaysia (viết tắt là SUHAKAM), LS. Mah Weng Kwai cho biết SUHAKAM được thành lập theo Đạo luật về Ủy ban nhân quyền Malaysia năm 1999 (Đạo luật 597). Ủy ban chịu trách nhiệm trước Nghị viện thông qua việc nộp báo cáo hằng năm và các báo cáo đặc biệt (Mục 21). SUHAKAM không nhận bất cứ chỉ thị nào từ Chính phủ mà hoạt động theo cơ chế riêng mặc dù các ủy viên của Ủy ban do người đứng đầu Nhà nước chỉ định trên cơ sở kiến nghị của Thủ tướng (Mục 3, Mục 23).

 

SUHAKAM có các chức năng chính sau:

-          Thúc đẩy nhận thức và giáo dục về nhân quyền;

-          Tư vấn và hỗ trợ Chính phủ xây dựng luật, các chỉ thị và thủ tục hành chính;

-          Nộp báo cáo thường niên đến Nghị viện, trong đó đề xuất các kiến nghị về chính sách;

-          Kiến nghị với Chính phủ về việc ký hay gia nhập các công ước quốc tế về nhân quyền;

-          Điều tra các đơn thư khiếu nại, tố cáo về vi phạm nhân quyền.

 

Ủy ban có quyền tiếp nhận các khiếu nại và tiến hành các cuộc điều tra theo tiến trình riêng, có quyền khá rộng trong việc thu thập và tiếp nhận chứng cứ, thẩm vấn nhân chứng và thu thập tài liệu.

 

Qua các báo cáo thường niên cho thấy hoạt động của SUHAKAM là khá tích cực và có những thành công, tuy nhiên vẫn còn nhiều thách thức trong việc khuyến khích Chính phủ thực hiện các khuyến nghị mà về bản chất không được các thành viên Chính phủ quan tâm trong chương trình nghị sự. Qua 13 năm hoạt động, SUHAKAM luôn nộp báo cáo thường niên lên Nghị viện nhưng chưa một báo cáo nào từng được thảo luận tại Nghị viện. Điều này cho thấy vai trò của SUHAKAM trong việc cải thiện tình hình nhân quyền ở Malaysia chưa cao và chưa được Nghị viện coi trọng.

 

Về Ủy ban nhân quyền quốc gia Thái Lan (NHRCT), GS.TS. Sripraphat Petcharamesree cho biết NHRCT được thành lập theo Hiến pháp năm 1997 và Đạo luật về Ủy ban nhân quyền quốc gia năm 1999. NHRCT là một tổ chức độc lập với chức năng thúc đẩy và bảo vệ quyền của tất cả mọi người được ghi nhận trong Hiến pháp và phù hợp với các nghĩa vụ nhân quyền quốc tế của quốc gia. Về cơ cấu tổ chức, NHRCT gồm 1 chủ tịch và 6 thành viên với nhiệm kỳ 6 năm và chỉ làm việc trong 1 nhiệm kỳ (Mục 256).

 

Báo cáo trong nhiệm kỳ đầu (2001-2007) của NHRCT cho thấy, cơ quan này đã có nhiều đóng góp quan trọng cho hoạt động bảo vệ nhân quyền ở Thái Lan. Tuy nhiên, kể từ cuối tháng 9/2006 cho đến nay, tình hình chính trị ở Thái Lan có nhiều bất ổn đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của NHRCT. Hiến pháp lâm thời 2014 đã bỏ các quy định về NHRCT và Ủy ban soạn thảo Hiến pháp dự định sẽ sáp nhập NHRCT với Văn phòng Thanh tra Quốc hội (Ombudsman). Điều nay gây ra những lo ngại bởi 2 cơ quan này có những mục tiêu khác nhau, cùng với đó là lo ngại về khả năng bảo đảm tính độc lập và không thiên vị của cơ quan này.

 

Quốc gia có cơ quan nhân quyền được thành lập sớm nhất trong khu vực ASEAN là Philippines. Ủy ban nhân quyền Philippines (CHRP) được thành lập theo quy định tại Điều XIII của Hiến pháp 1987 và hoạt động theo Sắc lệnh số 163 ngày 5/5/1987 của Tổng thống. việc thành lập CHRP là kết quả của cuộc trưng cầu ý dân cho bản Hiến pháp mới 1987 mà đánh dấu sự sụp đổ của chính quyền độc tài quân sự của Tổng thống Marcos. Một trong những chức năng của CHRP là điều tra những vi phạm nhân quyền thông qua các đơn thư khiếu nại, tố cáo. Sau khi điều tra, khi xét thấy có đủ chứng cứ chứng minh hành vi vi phạm nhân quyền, CHRP có quyền khuyến nghị Viện Công tố để đưa vụ việc ra truy tố. GS. Harry Roque cho biết, thời gian đầu CHRP thực hiện rất nhiệt tình chức năng điều tra của mình, khi có thời điểm 99% số đơn thư khiếu nại, tố cáo gửi đến được Ủy ban này tìm hiểu (năm 2001). Nhưng sự nhiệt tình này dần giảm đi (16% vào năm 2012), bởi lẽ Viện Công tố thường từ chối, không công nhận những bằng chứng, tư liệu mà CHRP thu thập được, vụ án mà CHRP điều tra khi đưa ra Tòa xét xử thì tỷ lệ kết tội rất thấp (1%). Theo GS. Harry Roque, để CHRP có thực quyền và hoạt động hiệu quả thì Hiến pháp cần quy định Ủy ban nhân quyền quốc gia có thẩm quyền truy tố hoặc Viện Công tố phải thừa nhận và tôn trọng những bằng chứng mà Cơ quan nhân quyền thu thập được. Ngoài ra, việc bổ nhiệm các ủy viên của Ủy ban nhân quyền phải có sự tham gia, giám sát của Quốc hội để đảm bảo sự độc lập của cơ quan này với cơ quan hành pháp. 

 

Từ thực tiễn nêu trên cho thấy thẩm quyền, chức năng, nhiệm vụ của Cơ quan nhân quyền quốc gia các nước Malaysia, Thái Lan và Philippines còn những hạn chế về tổ chức và hoạt động. Tuy nhiên, các nhà khoa học nước ngoài cùng cho rằng, Việt Nam vẫn cần thành lập cơ quan này. Thiết chế này sẽ nói lên tiếng nói của người dân và là kênh hữu hiệu trong việc cung cấp cho chính quyền, công luận những thông tin về nhân quyền. Từ đó, chính quyền và người dân sẽ có ý thức hơn trong bảo vệ và bảo đảm, thúc đẩy quyền con người. Bà Roichtul Awidah - Cơ quan nhân quyền Indonesia, cũng ủng hộ Việt Nam thành lập Ủy ban nhân quyền quốc gia. Bà đưa ra ví dụ về vấn đề người di cư trong khu vực ASEAN, khi đó Cơ quan nhân quyền của các nước sẽ phối hợp với nhau để giải quyết những vấn đề chung liên quan đến quyền con người.

 

Trong ngày thứ hai của Hội thảo, các nhà khoa học tiếp tục thảo luận về hai chủ đề: “Các yếu tố quyết định lựa chọn mô hình cơ quan nhân quyền quốc gia”; và “Mô hình cơ quan nhân quyền quốc gia ở các nước ASEAN – những vấn đề đặt ra và khả năng thực thi”. 

 

Theo PGS.TS. Hoàng Văn Nghĩa, Phó Viện trưởng Viện nghiên cứu quyền con người, Học viện Chính Trị Quốc gia Hồ Chí Minh, việc thành lập cơ quan nhân quyền quốc gia và lựa chọn mô hình thích hợp ở Việt Nam sẽ phụ thuộc các yếu tố sau:

-          Yếu tố thể chế chính trị;

-          Yếu tố pháp luật;

-          Yếu tố văn hóa, lịch sử;

-          Yếu tố kinh tế - xã hội;

-          Yếu tố hội nhập và hợp tác quốc tế.

 

PGS.TS. Hoàng Văn Nghĩa cho biết, dựa trên khảo sát, trên thế giới hiện nay có 125/193 quốc gia và vùng lãnh thổ đã có cơ quan nhân quyền quốc gia.

 

Về mô hình cơ quan nhân quyền quốc gia, dựa trên các yếu tố đã nêu và thực tiễn hiện nay cũng như xu thế quốc tế và khu vực, PGS.TS. Tường Duy Kiên cho rằng mô hình Ủy ban nhân quyền quốc gia trực thuộc Quốc hội là phù hợp với Việt Nam.

 

Tiếp theo, PGS.TS. Phạm Hữu Nghị đề xuất những công việc cụ thể cần tiếp tục thực hiện để có thể thành lập cơ quan nhân quyền này, đó là: nghiên cứu chuyên sâu cơ chế Liên hợp quốc, cơ chế khu vực, cơ chế quốc gia về  bảo đảm, bảo vệ quyền con người; nghiên cứu chuyên sâu Nguyên tắc Paris; khảo sát, đánh giá tình hình thực hiện quyền con người ở Việt Nam; tiếp tục tổ chức các hội thảo, tọa đàm có sự tham gia của không chỉ các nhà quản lý, nhà khoa học mà còn là người dân, những người yếu thế trong xã hội; thành lập ban soạn thảo đề án xây dựng cơ quan nhân quyền quốc gia; xây dựng luật về cơ quan nhân quyền quốc gia.

 

Các đại biểu chụp ảnh kỷ niệm.

 

Phát biểu kết thúc Hội thảo, PGS.TS. Nguyễn Như Phát cho rằng, Hội thảo đã thành công với nhiều thông tin hữu ích, cùng những thảo luận sôi nổi về các vấn đề quan tâm. Các nhà khoa học Việt Nam được lắng nghe các đại biểu ở các nước láng giềng giới thiệu và chia sẻ kinh nghiệm từ quá trình hoạt động của cơ quan nhân quyền quốc gia. Mục dù tính độc lập của cơ quan này chưa như mong muốn, hiệu quả hoạt động chưa cao nhưng sự hiện diện của nó đã góp ích một phần cho trật tự xã hội trong Nhà nước pháp quyền. Đây là một kinh nghiệm rất quý cho Việt Nam. Phần lớn các ý kiến tại Hội thảo cho rằng đã đến lúc Việt Nam cần thành lập cơ quan nhân quyền quốc gia. Chắc chắn những thông tin hữu ích từ Hội thảo này sẽ giúp cho các nhà khoa học trong nước tiếp tục nghiên cứu sâu hơn nữa về thiết chế này để đề xuất với chính quyền thành lập cơ quan này trong thời gian tới.

 

PGS.TS. Nguyễn Như Phát cũng cám ơn sự hỗ trợ nhiệt tình của cá nhân Ông Thẩm phán Marc Spitzkatz trong việc lên kế hoạch và tổ chức Hội thảo này và tin tưởng về sự hiệu quả trong hợp tác khoa học giữa Viện Nhà nước và Pháp luật và Chương trình Nhà nước pháp quyền Châu Á, Viện KAS, CHLB Đức trong thời gian tới. 

 

Xem thêm: Hình ảnh tại Hội thảo quốc tế "Cơ quan nhân quyền quốc gia - Kinh nghiệm của các nước ASEAN"

 

Các tin cùng chuyên mục: