Tham gia có TS. Phạm Thị Thúy Nga, Viện trưởng và TS. Nguyễn Linh Giang, Phó Viện trưởng cùng đông đảo các viên chức, người lao động trong Viện. Chủ trì tọa đàm là TS. Hoàng Kim Khuyên, Trưởng Ban Đời sống và ThS. Phạm Hồng Nhật, Bí thư Chi đoàn.

ThS. Nguyễn Thanh Tùng trình bày tham luận
Tham luận mở đầu do ThS. Nguyễn Thanh Tùng trình bày có tiêu đề “Quyền của người phụ nữ trong pháp luật phong kiến Việt Nam”. Khái niệm “quyền phụ nữ” hay “bình đẳng giới” chưa từng tồn tại trong hệ thống pháp luật cũng như đời sống xã hội phong kiến Việt Nam. Các văn bản cổ luật không hề sử dụng thuật ngữ về “nữ quyền” hay “nhân quyền” như chúng ta hiểu ngày nay. Tuy nhiên, trong nhiều quy định vẫn có thể nhận thấy những nội dung nhằm bảo vệ và thừa nhận quyền lợi nhất định cho phụ nữ, chẳng hạn như quyền sở hữu, quyền thừa kế, quyền được tôn trọng về danh dự, nhân phẩm hay quyền được bảo vệ trong hôn nhân và gia đình. Trong lĩnh vực hôn nhân – gia đình, thời Lê sơ với Bộ luật Hồng Đức có nhiều quy định liên quan đến bảo vệ danh dự, quyền lợi người phụ nữ, chống cưỡng ép hôn nhân, cho phép người phụ nữ xin ly hôn (Điều 308, 333). Đây là một bước tiến nhân văn, độc đáo. Cùng với đó, Bộ luật cũng có quy định về “thất xuất” và “tam bất khứ” thể hiện sự nhân đạo, coi trọng vai trò người vợ.
Trong lĩnh vực luật hình sự, với Bộ luật Hồng Đức, ưu tiên hình phạt trượng áp dụng với nam, nữ sẽ nhẹ hơn, phụ nữ mang thai sẽ được hoãn tử hình đến sau sinh 100 ngày (Điều 680). Bộ luật Gia Long tiếp tục nương nhẹ hình phạt với nữ nhân phạm tội nhưng vẫn áp dụng hình phạt trượng trong một số trường hợp. Pháp luật nghiêm trị tội xâm hại tình dục, gian dâm. Với Luật Hồng Đức, gian dâm với trẻ dưới 12 tuổi xử như hiếp dâm (Điều 404). Với Luật Gia Long, cưỡng gian trẻ em hoặc phụ nữ có thể bị xử tử (Điều 500–503). Điều này cho thấy pháp luật phong kiến Việt Nam thể hiện tinh thần nhân đạo, bảo vệ phụ nữ và trẻ em, đồng thời đối xử khoan dung hơn khi họ phạm tội. Tuy nhiên, ảnh hưởng tư tưởng Nho giáo – “tam tòng, tứ đức” vẫn khiến địa vị phụ nữ còn bị ràng buộc trong khuôn khổ lễ giáo.
Những quy định trong các bộ luật thời đó có giá trị tham khảo đối với công tác xây dựng pl hiện nay về quyền của phụ nữ. Chẳng hạn, trong lĩnh vưc kinh tế - pháp lý, thừa nhận quyền thừa kế, sở hữu tài sản riêng, tham gia giao dịch dân sự của phụ nữ là bước tiến sớm trong tư duy pháp lý, góp phần hình thành nền tảng cho Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, Bộ luật Dân sự năm 2015 và chính sách bình đẳng giới trong kinh tế số.
Qua khảo cứu có thể thấy, pháp luật phong kiến Việt Nam, dù ra đời trong bối cảnh quân chủ chuyên chế, vẫn chứa đựng nhiều yếu tố nhân văn. Các bộ luật tiêu biểu như Hình thư, Luật Hồng Đức hay Luật Gia Long đều quy định bảo vệ sinh mệnh, tài sản, đồng thời điều chỉnh khá cụ thể quan hệ hôn nhân và gia đình. Trong đó, người phụ nữ tuy chịu ảnh hưởng nặng nề của lễ giáo và chế độ gia trưởng nhưng ở một số phương diện vẫn được thừa nhận quyền lợi, như quyền của vợ chính thất, quyền yêu cầu ly hôn, hay quyền thừa kế khi không có con trai. Những điểm này phản ánh sự bản địa hóa linh hoạt, khác biệt so với mô hình Trung Hoa, đồng thời khẳng định truyền thống pháp luật Việt Nam luôn gắn với tính nhân văn và đạo lý. Dù còn nhiều hạn chế, các quy định bảo hộ phụ nữ thời phong kiến vẫn mang giá trị tham khảo quan trọng cho công cuộc xây dựng, hoàn thiện pháp luật hiện nay theo hướng vừa kế thừa truyền thống, vừa đáp ứng yêu cầu phát triển mới.

ThS. Nguyễn Lê Dân
Tham luận thứ hai trình bày tại tọa đàm là của ThS. Nguyễn Lê Dân, “Thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị”. Bình đẳng giới trong chính trị là một trong những trụ cột quan trọng bảo đảm quyền con người, thúc đẩy dân chủ và phát triển bền vững. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhận trong việc nâng cao vai trò và sự tham gia của phụ nữ vào đời sống chính trị, thể hiện qua việc tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp ngày càng tăng, hệ thống pháp luật về bình đẳng giới ngày càng hoàn thiện và các chương trình hành động quốc gia được triển khai rộng rãi. Tuy nhiên, khoảng cách giới trong lĩnh vực chính trị vẫn còn tồn tại đáng kể, đặc biệt ở các vị trí lãnh đạo, quản lý cấp cao và ở các địa phương có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn.
Tỷ lệ nữ giới ở Việt Nam tham gia vào hệ thống chính trị thuộc nhóm đứng đầu thế giới. Tính đến tháng 12/2022, có 15/30 bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có lãnh đạo chủ chốt là nữ, đạt 50%, tăng 3,4% so với năm 2021, trong đó các bộ, cơ quan ngang bộ có lãnh đạo chủ chốt là 13/22, tăng 6% so với năm 2021. Có 2/8 cơ quan thuộc Chính phủ có lãnh đạo chủ chốt là nữ, đạt 25%. Theo Báo cáo của Quốc hội Việt Nam (2022), tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội khóa XV đạt 30,26%, tăng nhẹ so với khóa XIV (26,7%) và cao hơn mức trung bình của khu vực châu Á - Thái Bình Dương là 20,8%. Đây được xem là một bước tiến đáng kể, đưa Việt Nam vào nhóm 60 quốc gia có tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội cao nhất thế giới.
Tác giả đã nhìn nhận và chỉ ra một số rào cản làm gia tăng khoảng cách giới trong chính trị. Một trong những nguyên nhân cốt lõi của sự chênh lệch giới trong lĩnh vực chính trị là định kiến giới và khuôn mẫu văn hóa lâu đời về vai trò của nam và nữ trong xã hội. Ở nhiều cộng đồng, đặc biệt là khu vực nông thôn và miền núi, phụ nữ vẫn bị mặc định gắn liền với vai trò nội trợ, chăm sóc gia đình, trong khi chính trị được xem là lĩnh vực “phù hợp” với nam giới. Một nguyên nhân chính nữa là áp lực kép từ công việc và gia đình. Khác với nam giới, phụ nữ thường phải đảm nhận đồng thời nhiều vai trò và trách nhiệm trong cuộc sống, được gọi là “vai trò kép”. Họ không chỉ tham gia tích cực vào lực lượng lao động và các hoạt động xã hội mà còn gánh vác phần lớn các công việc gia đình như chăm sóc con cái, quán xuyến nội trợ và duy trì các mối quan hệ gia đình. Sự kết hợp này tạo ra áp lực lớn về thời gian và sức lực, khiến phụ nữ khó có thể toàn tâm toàn ý tham gia sâu rộng vào các hoạt động chính trị, vốn đòi hỏi sự cam kết liên tục, cường độ làm việc cao và khả năng kết nối rộng rãi trong mạng lưới quan hệ xã hội cũng như chính trị.
Từ đó, ThS. Nguyễn Lê Dân đã đề xuất một số giải pháp thúc đẩy quyền tham gia chính trị của phụ nữ. Có thể kể đến như, cần có sự cam kết mạnh mẽ của hệ thống chính trị, các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể cũng như toàn xã hội trong việc thúc đẩy bình đẳng giới. Việc thay đổi thái độ, tư duy và nâng cao tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý có ý nghĩa quyết định đối với hiệu quả thực hiện chính sách. Bình đẳng giới không chỉ là vấn đề quyền lợi mà còn là điều kiện để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Cần thực hiện tốt các chính sách quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ theo hướng dài hạn, bài bản và có tính chiến lược. Tạo điều kiện cho phụ nữ tham gia vào các chương trình đào tạo lãnh đạo, quản lý cần được lồng ghép trong chiến lược phát triển nhân lực quốc gia ở tất cả các cấp, ngành và địa phương.

TS. Trương Vĩnh Khang trao đổi ý kiến về hai tham luận
Trao đổi tại tọa đàm, TS. Trương Vĩnh Khang cho rằng, bản chất của Nhà nước phong kiến Việt Nam là ko ghi nhận quyền của phụ nữ nói chung để đảm bảo mục tiêu tam tòng, điều này đã không giải phóng phụ nữ. Đến khi Nhà nước dân chủ Việt Nam hình thành, một trong những đạo luật đầu tiên được ban hành sau Hiến pháp năm 1946 là Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1959. Bản chất của việc ban hành luật này là vấn đề bình đẳng giới, nam nữ bình quyền. Việc ghi nhận và bảo vệ quyền của phụ nữ đã tạo ra điều kiện minh chứng cho một xã hội của dân, do dân và vì dân; hướng tới bình đẳng giữa con người với nhau nói chung và quyền của nam và nữ trong xã hội đương đại nói riêng.
Bình luận về giải pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị, theo TS. Phạm Thị Thúy Nga, có lẽ cần đặt ra tỷ lệ cứng, tỷ lệ bắt buộc cho số đại biểu, cán bộ nữ giữa các chức vụ lãnh đạo, quản lý ở các cơ quan trung ương, địa phương chứ không chứ chỉ theo hình thức khuyến khích.
TS. Nguyễn Linh Giang nhìn nhận, một trong những thành tựu của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là đem lại bình đẳng giới. Về quyền của phụ nữ, khi so sánh với một số quốc gia Châu Á phát triển hơn như Nhật Bản, Hàn Quốc thì Việt Nam bảo vệ tốt hơn. Có một thực tế khi rất nhiều gia đình Hàn Quốc và Nhật Bản, người vợ chỉ ở nhà làm công việc nội trợ không được đi làm, tham gia vào các hoạt động chính trị - xã hội.
Lễ kỷ niệm diễn ra sau khi kết thúc tọa đàm. Thay mặt cho đồng nghiệp nam, ThS. Cao Việt Thăng, Trưởng phòng Hành chính – Tổng hợp, tặng hoa và gửi lời chúc tốt đẹp đến toàn thể cán bộ nữ viên chức của Viện. Tiếp theo, Toàn thể Viện và các phòng đã chụp ảnh kỷ niệm.

Toàn Viện chụp bức ảnh kỷ niệm với những lẵng hoa chúc mừng tươi thắm