Mở đầu là tọa đàm về Đề tài cơ sở cá nhân “Chế độ trách nhiệm trước cử tri của đại biểu Quốc hội ở Việt Nam hiện nay” của TS. Phan Thanh Hà. Về mặt khái niệm, tác giả cho rằng, chế độ trách nhiệm của đại biểu quốc hội (ĐBQH) đối với cử tri là tổng hợp các quy định pháp luật về bổn phận, nghĩa vụ của ĐBQH trong mối quan hệ với cử tri. Đề tài chỉ ra bốn đặc điểm chính của chế độ trách nhiệm của ĐBQH đối với cử tri:
- Được ghi nhận, bảo vệ bằng hệ thống các quy định pháp luật chặt chẽ và bảo đảm thực hiện bằng các thiết chế quyền lực nhà nước và chính trị;
- Thể hiện bản chất, vị trí của ĐBQH là tính đại diện, tính nhân dân;
- ĐBQH và cử tri là những chủ thể có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau và là chủ thể chính trong nền dân chủ;
- Trách nhiệm pháp lý đặc biệt.
Phương thức thực hiện chế độ trách nhiệm này được chia thành hai dạng: trực tiếp và gián tiếp. Trong đó, phương thức trực tiếp là những hình thức như: tiếp xúc cử tri, tiếp công dân, nhận, chuyển tiếp và đôn đốc việc xử lý, giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo của người dân…; phương thức gián tiếp là ĐBQH với tư cách là người đại diện của nhân dân, thay mặt nhân dân tham gia quản lý nhà nước, chuyển tải, phản ánh lại các ý kiến của cử tri trong hoạt động nghị trường, hoặc tham gia vào các hoạt động ở Quốc hội để thực hiện quyền lực nhà nước (dân chủ gián tiếp).
TS. Phan Thanh Hà báo cáo kết quả nghiên cứu chính của đề tài
TS. Phan Thanh Hà cũng giới thiệu kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về chế độ trách nhiệm của ĐBQH: vai trò và nhiệm vụ đại diện cho cử tri; vai trò và nhiệm vụ thông tin chinh sách và hoạt động nghị viện tới công chúng; ủy quyền tự do và ủy quyền theo lệnh; quyền bất khả xâm phạm và quyền miễn trừ trách nhiệm…
Ở Việt Nam, Điều 79 Hiến pháp năm 2013 quy định: ĐBQH là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân ở đơn vị bầu cử ra mình và của nhân dân cả nước; liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri; thu thập và phản ánh trung thực ý kiến, nguyện vọng của cử tri với Quốc hội, các cơ quan, tổ chức hữu quan; thực hiện chế độ tiếp xúc và báo cáo với cử tri về hoạt động của đại biểu và của Quốc hội; trả lời yêu cầu và kiến nghị của cử tri; theo dõi, đôn đốc việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và hướng dẫn, giúp đỡ việc thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo; phổ biến và vận động nhân dân thực hiện Hiến pháp và pháp luật.
Các quy định pháp luật cụ thể liên quan đến vai trò và trách nhiệm của ĐBQH với cử tri có thể kể đến bao gồm: Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014 (Điều 24 về thời gian hoạt động của ĐBQH, khoản 2 Điều 27 về việc tiếp xúc cử tri, Điều 28 về trách nhiệm tiếp công dân, tiếp nhận và xử lý khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân), Luật Bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân (HĐND) năm 2015, Luật Tiếp công dân năm 2013 (Điều 20, Điều 21), Nghị quyết số 759/2014/UBTVQH ngày 15/05/2014 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về hoạt động tiếp công dân của các cơ quan của Quốc hội, ĐBQH, HĐND và đại biểu HĐND các cấp,…
Tác giả cũng đề cập đến các quy định pháp luật Việt Nam về quyền miễn trừ của ĐBQH, chuyển công tác, xin thôi, tạm đình chỉ, bãi nhiệm ĐBQH và phân tích một số vụ việc trong thực tiễn. Từ những vấn đề được nêu ở trên, đề tài đang nghiên cứu và hoàn thiện việc đề xuất một số giải pháp tăng cường trách nhiệm trước cử tri của ĐBQH, trong đó có các giải pháp về nhận thức, hoàn thiện pháp luật, tổ chức vận hành và bảo đảm.
TS. Phạm Thị Thúy Nga (giữa) trao đổi về đề tài
Trao đổi tại tọa đàm, TS. Phạm Thị Thúy Nga muốn chủ nhiệm đề tài giải thích rõ hơn về thuật ngữ “chế độ trách nhiệm” và yêu cầu về mối quan hệ giữa ĐBQH với cử tri trong các phương diện, trường hợp nào. TS. Phan Thanh Hà cho biết, về mặt khái quát, “trách nhiệm” là nội dung còn “chế độ” là vỏ bên ngoài đi theo. Hiểu ở nghĩa sâu hơn, nói đến chế độ trách nhiệm là nhấn mạnh đến khía cạnh về các cơ sở pháp lý bảo đảm. Về mối quan hệ giữa ĐBQH với cử tri, theo tác giả, hiểu theo nghĩa hẹp thì mối quan hệ này phần lớn là qua tiếp cử tri, giải quyết khiếu nại. Tuy nhiên, đề tài nhìn nhận, cần phải hiểu theo nghĩa rộng hơn thể hiện trên các khía cạnh ĐBQH với tư cách là người đại diện của dân thông qua hoạt động tại nghị trường, thực hiện các chức năng như lập pháp, giám sát cũng như tham gia vào việc quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước. Ngoài hoạt động nghị trường, ĐBQH cũng cần tăng cường mối quan hệ này bằng việc tiếp xúc, lắng nghe ý kiến và giải quyết những kiến nghị cũng như tuyên truyền, phổ biến pháp luật đến cử tri.
Đề tài cũng nhận được những góp ý, trao đổi về các vấn đề: quyền lợi và trách nhiệm của ĐBQH, quyền tự do biểu đạt của ĐBQH, thiết chế Tổng thư ký Quốc hội,…
Buổi sinh hoạt khoa học thứ hai trong ngày là của Đề tài cơ sở do ThS. Nguyễn Thị Hưng thực hiện có chủ đề “Tổ chức bộ máy quản trị địa phương ở CHLB Đức, Vương quốc Anh và tham khảo cho Việt Nam”. Sau khi giới thiệu vài nét về lịch sử hình thành chế độ quản trị địa phương (QTĐP) ở CHLB Đức và Vương quốc Anh, đề tài đưa ra khái niệm về QTĐP. Theo nghĩa hẹp, QTĐP được hiểu là sự tham gia của các tầng lớp xã hội vào quá trình thực thi chính sách công nhằm hướng tới sự đồng thuận trách nhiệm giải trình của chính quyền, bảo đảm minh bạch, hiệu quả, hiệu năng, công bằng đối với tất cả các đối tượng trong việc tuân thủ pháp luật. QTĐP là quyền và khả năng của các cơ quan chính quyền địa phương được quyết định và quản lý phần lớn các công việc của cộng đồng trong khuôn khổ pháp luật và bằng trách nhiệm của mình, vì lợi ích của nhân dân địa phương.
ThS. Nguyễn Thị Hưng trình bày nội dung đề tài
Sau đó, đề tài giới thiệu và phân tích mô hình bộ máy QTĐP ở 2 quốc gia Châu Âu mà ThS. Nguyễn Thị Hưng đã chọn theo các nội dung: Lịch sử hình thành và phát triển; tổ chức đơn vị hành chính lãnh thổ; tổ chức bộ máy cơ quan quản trị địa phương; ngân sách địa phương. Trong đó, về tổ chức bộ máy cơ quan QTĐP ở CHLB Đức, cơ sở pháp lý là Hiến pháp, cơ cấu gồm cơ quan đại diện (Hội đồng) và cơ quan hành chính (Ủy ban), nhiệm kỳ 05 năm với Hội đồng và 06-12 năm với Ủy ban. Tại Vương quốc Anh, cơ sở pháp lý là Luật Chính quyền địa phương (không phải Hiến pháp), cơ cấu chỉ gồm 1 cơ quan vừa có chức năng đại diện vừa có chức năng quản lý.
Về ngân sách địa phương, 2 quốc gia này có một số đặc điểm chung: chính quyền địa phương được tự hình thành ngân sách và tự quản ngân sách, chính quyền trung ương sẽ định ra các sắc thuế và biên độ các mức thu thuế cho địa phương và địa phương chỉ được thu các loại thuế này, không được tự đặt ra các sắc thuế khác. Đề tài cũng cung cấp thông tin về các loại thuế mà chính quyền từ cấp xã đến cấp tỉnh/thành phố được thu.
Từ kinh nghiệm tổ chức bộ máy QTĐP ở 2 quốc gia trên, đề tài đưa ra một số gợi mở cho việc xây dựng mô hình QTĐP ở Việt Nam:
- Nâng cao vai trò của Hội đồng nhân dân;
- Tinh giản bộ máy chính quyền địa phương để giảm bớt gánh nặng cho ngân sách;
- Một số lĩnh vực nên để cho tư nhân thực hiện thông qua đấu thầu (thu gom rác thải, vệ sinh công cộng,…);
- Trao nhiều quyền tự chủ hơn cho địa phương về ngân sách, tài chính,…
Thảo luận tại tọa đàm, PGS.TS. Lê Mai Thanh cho rằng, dựa trên mô hình QTĐP sẽ xác định được việc phân chia quyền lực thế nào. Từ việc phân tích mô hình của CHLB Đức và Vương quốc Anh, đề tài cần tìm ra điểm chung nào mà Việt Nam có thể học hỏi được. Ngoài việc cung cấp thông tin về tổ chức bộ máy, đề tài cũng cần xác định rõ mục tiêu của mỗi mô hình quản trị là gì.
Ngoài ra, các nhà khoa học đã trao đổi, góp ý về các vấn đề: cơ sở pháp lý về quản trị địa phương ở Việt Nam, đánh giá những vấn đề bất cập trong tổ chức chính quyền địa phương ở Việt Nam,…