•  
     
  •  
     
  •  
     
  •  
     
  •  
     
LIÊN KẾT WEBSITE

Tọa đàm “Dinh dưỡng không lành mạnh và lạm dụng đồ uống có cồn: Gánh nặng bệnh không lây nhiễm và giải pháp”

08/08/2025
Tọa đàm do Viện Nhà nước và Pháp luật tổ chức, diễn ra ngày 30/7/2025 tại hội trường tầng 1, trụ sở 27 Trần Xuân Soạn, Hai Bà Trưng, Hà Nội.

Tham dự tọa đàm có các đại biểu đến từ Viện Dinh dưỡng, Viện Chiến lược và Chính sách Y tế, Cục Phòng bệnh, Trường Đại học Y tế công cộng (Bộ Y tế), Trung tâm Kiểm soát Bệnh tật Tp. Hà Nội và đại diện một số cơ quan truyền thông, hiệp hội (VOV Giao thông; Tạp chí Thông tin và Truyền thông; Hiệp hội Bia, Rượu, Nước giải khát Việt Nam…) cùng đông đảo nhà khoa học của Viện Nhà nước và Pháp luật.  

 

Đồng chủ trì tọa đàm là PGS.TS. Nguyễn Thị Việt Hương (Nguyên Phó Viện trưởng Viện Nhà nước và Pháp luật), PGS.TS. Trần Đắc Phu (Nguyên Cục trưởng Cục Y tế Dự phòng, Bộ Y tế) và ThS. Trần Anh Tú (Phó Tổng Biên tập Tạp chí Thông tin và Truyền thông).

 

PGS.TS. Nguyễn Thị Việt Hương phát biểu đề dẫn tọa đàm

 

Sau lời khai mạc của ThS. Ngô Vĩnh Bạch Dương (Giám đốc Trung tâm Tư vấn Pháp luật, Viện Nhà nước và Pháp luật), PGS.TS. Nguyễn Thị Việt Hương phát biểu đề dẫn tọa đàm. Bà cho biết, các bệnh không lây nhiễm – bao gồm bệnh tim mạch, đái tháo đường, ung thư và các bệnh hô hấp mãn tính – đang là thách thức lớn nhất đối với sức khỏe cộng đồng tại Việt Nam và trên toàn thế giới. Theo thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), năm 2023, NCDs là nguyên nhân của 77% tổng số ca tử vong tại Việt Nam. Không chỉ gây ra tổn thất về người, gánh nặng kinh tế từ các bệnh này cũng vô cùng lớn, ước tính làm mất đi từ 10-15% GDP mỗi năm do chi phí điều trị và giảm năng suất lao động (Bộ Y tế, 2022). Trong thời gian qua, Việt Nam đã có những bước tiến mạnh mẽ về chính sách và truyền thông, điển hình như việc ban hành Luật Phòng, chống tác hại của rượu, bia 2019 hay những chiến dịch truyền thông tuyên truyền về tác hại của thuốc lá. Đây là những nỗ lực đáng ghi nhận và đã thu nhận được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, còn một vấn đề khác chưa được chúng ta quan tâm là dinh dưỡng không lành mạnh, mất cân bằng với lượng muối cao gần gấp đôi và lượng rau xanh thấp hơn mức khuyến nghị của WHO.

 

PGS.TS. Nguyễn Thị Việt Hương mong muốn, tọa đàm đón nhận các ý kiến đa chiều từ các chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý, truyền thông nhằm tìm ra giải pháp cân bằng, khả thi để giảm thiểu tỷ lệ người mắc bệnh và hướng tới cộng đồng khỏe mạnh hơn. 

 

Tham luận mở đầu tọa đàm là của TS. Nguyễn Minh Hoàng (Giảng viên Trường Đại học Y tế công cộng) có chủ đề “Bệnh không lây nhiễm và những gánh nặng ở Việt Nam”. Bệnh không lây nhiễm, hay còn gọi là bệnh mãn tính không lây, là các bệnh không lây truyền, đòi hỏi việc điều trị có hệ thống và lâu dài. Tác giả đưa ra một số đặc điểm của bệnh không lây nhiễm như: (i) Do nhiều yếu tố, nguy cơ kết hợp; (ii) Khởi đầu âm thầm, phát triển, tiến triển kéo dài; (iii) Gây rối loạn chức năng cơ thể hoặc gây tàn phế; (iv) Không chữa khỏi hoàn toàn được và phải điều trị suốt đời. TS. Nguyễn Minh Hoàng giới thiệu thuật ngữ về chỉ số DALY, viết tắt của cụm từ tiếng Anh “Disability - Adjusted Life Years”, tiếng Việt nghĩa là “Số năm sống điều chỉnh theo mức tàn tật” = Số năm sống với bệnh tật hoặc tàn tật + Số năm mất đi do chết sớm. Theo đó, nếu chỉ số DALY càng cao thì bệnh càng gây mất mát nhiều cho xã hội, người dân chết sớm, sống trong tàn tật, mất khả năng lao động.

 

TS. Nguyễn Minh Hoàng trình bày tham luận

 

Tham luận đã cung cấp các số liệu về gánh nặng của bệnh không lây nhiễm theo nhóm bệnh, số ca tử vọng, địa lý, giới tính, nhóm tuổi. Về địa lý, các quốc gia có DALY do bệnh không lây nhiễm cao nhất (>=40.000 DALY/100.000 dân) tập trung ở châu Phi và châu Á. Việt Nam nằm trong nhóm có DALY do bệnh không lây nhiễm trung bình, gánh nặng bệnh tật do bệnh không lây nhiễm còn đáng kể. Các số liệu cho thấy Việt Nam nằm trong nhóm nguy cơ trung bình cao (20-25%).

 

TS. Nguyễn Minh Hoàng đã chỉ ra các yếu tố nguy cơ của bệnh không lây nhiễm mà con người có thể thay đổi được, đó là: Dinh dưỡng kém, hút thuốc lá, thiếu vận động thể chất và lạm dụng rượu bia. Đây cũng chính là những nguyên nhân hàng đầu làm gia tăng tử vong sớm và DALY. Tác giả đã phân tích tác động của bệnh không lây nhiễm đến chi phí y tế trực tiếp. Nghiên cứu tại Hà Nội chỉ ra rằng, các hộ gia đình có người mắc bệnh không lây nhiễm có nguy cơ chi tiêu y tế vượt ngưỡng cao hơn gấp 2,4 lần so với các hộ không có người mắc bệnh. Còn tại nông thôn, các hộ gia đình có ít nhất một thành viên mắc bệnh không lây nhiễm có nguy cơ cao hơn đáng kể 2,3 lần rơi vào nghèo đói do chi phí y tế.

 

Tọa đàm tiếp tục lắng nghe TS.BS. Hoàng Thị Đức Ngàn (Phụ trách Khoa Dinh dưỡng Cộng đồng, Viện Dinh dưỡng, Bộ Y tế) trình bày tham luận “Gánh nặng các bệnh không lây nhiễm tại Việt Nam và vai trò của dinh dưỡng hợp lý: Bằng chứng và xu hướng”. Chuyên gia đã cung cấp các số liệu thực tế về thói quen dinh dưỡng gây nguy cơ bệnh không lây nhiễm. Mặc dù muối là chất cần thiết với cơ thể nhưng ăn thừa muối lại gây nhiều tác hại cho sức khỏe. Người Việt Nam đang ăn trung bình 8-9,4g/người/ngày, cao gần gấp đôi so với khuyến cáo của WHO. Việc ăn thừa muối gây nguy cơ cao mắc các bệnh đột quỵ não, nhồi máu cơ tim, sỏi thận, ung thư dạ dày… Bên cạnh đó, tại Việt Nam, trong 15 năm qua, mức tiêu thụ đồ uống có đường đã tăng nhanh chóng. Năm 2023, người dân tiêu thụ đồ uống có đường gấp 4 lần so với năm 2009. Tiêu thụ nhiều đường, nước ngọt là yếu tố chính gây béo phì, làm tăng nguy cơ rối loạn chuyển hóa, mắc đái tháo đường, bệnh tim mạch, gây bệnh lý của xương. Tác giả đã phân tích các can thiệp dinh dưỡng trong quản lý bệnh không lây nhiễm. Các công cụ về chính sách kinh tế, tài chính và quy định chủ yếu được áp dụng trong chính sách thuốc lá và rượu, bia. Các công cụ mềm chiếm ưu thế trong lĩnh vực dinh dưỡng và đặc biệt là hoạt động thể chất. Về hiệu quả can thiệp về dinh dưỡng hợp lý, từ năm 2016 – 2020, chế độ ăn uống lành mạnh rẻ nhất nằm trong khả năng chi trả của tất cả các hộ gia đình có thu nhập cao và trung bình khá, nhưng lại nằm ngoài khả năng chi trả của khoảng 70% hộ gia đình có thu nhập thấp, nơi việc tuân thủ Chương trình Phòng chống bệnh tim mạch vành của Việt Nam có thể tiêu tốn tới 70% thu nhập của họ. Tuy nhiên, TS.BS. Hoàng Thị Đức Ngàn cho rằng, trong số các can thiệp, can thiệp về dinh dưỡng mặc dù có một số khó khăn nhất định nhưng là một trong những giải pháp can thiệp hiệu quả nhất trong quản lý bệnh không lây nhiễm.

 

PGS.TS. Trần Đắc Phu chia sẻ với những quan điểm của TS.BS. Hoàng Thị Đức Ngàn về việc ăn và uống đều phải hợp lý nhưng liệu có làm được không, ông đưa ra một ví dụ thực tế về một món ăn rất phổ biến là phở được chế biến nhạt đi thì người dân còn thích ăn nữa không. Bởi lẽ, vị ngon của phở phần lớn là ở nước dùng đậm đà, thơm ngon được ninh từ xương bò và các loại gia vị là linh hồn của món phở. 

 

TS.BS. Nguyễn Thị Hồng Diễm với tham luận về tình hình sử dụng rượu bia ở Việt Nam

 

Tiếp theo, TS.BS. Nguyễn Thị Hồng Diễm (Cục Phòng bệnh, Bộ Y tế) trình bày tham luận “Tình hình sử dụng rượu, bia”. Tác giả đã cung cấp rất nhiều số liệu liên quan đến tác hại của rượu, bia đến đời sống xã hội, cụ thể là: Tổng sản lượng rượu, bia theo các năm; mức tiêu thụ rượu, bia bình quân đầu người/năm; tỷ lệ người dân có uống rươu, bia; uống rượu, bia ở mức nguy hại; uống rượu, bia và lái xe; uống rượu, bia ở tuổi vị thành niên. Từ những số liệu này, tác giả đã tổng hợp và đưa ra một số kết luận: (i) Tiêu thụ rượu, bia ở Việt Nam ở mức cao so với trung bình thế giới; (ii) Uống rượu, bia đang phổ biến ở giới trẻ và tuổi uống đang dần trẻ hóa; (iii) Không có mức độ uống rượu, bia nào là an toàn, uống rượu, bia ở mức độ nào cũng tăng nguy cơ mắc ung thư; (iv) Tác hại của rượu, bia chỉ là phần nổi của tảng băng chìm. Từ đó, tác giả đề xuất một số giải pháp để phòng, chống tác hại của rượu, bia:

  • Hạn chế sự sẵn có của rượu, bia;
  • Cấm uống rượu, bia và lái xe;
  • Điều trị, sàng lọc can thiệp giảm tác hại về sức khỏe do uống rượu, bia;
  • Cẩm/kiểm soát việc quảng cáo, tài trợ rươu, bia;
  • Tăng thuế để tăng giá rươu, bia.

Sau giờ nghỉ giải lao, tọa đàm tiếp tục với báo cáo “Vai trò của truyền trông và cộng đồng trong thay đổi hành vi tiêu dùng rượu, bia” của ThS. Trần Anh Tú. Muốn thay đổi được hành vi, truyền thông không chỉ nói một chiều về tác hại, mà phải phản ánh vấn đề dưới nhiều góc độ khác nhau. Đây chính là nguyên tắc “đa chiều” trong truyền thông.

 

ThS. Trần Anh Tú bày tò quan điểm về vai trò của truyền thông và cộng đồng trong thay đổi hành vi tiêu dùng rượu, bia

 

Trước hết, dựa trên thông tin khoa học xác thực, truyền thông cần cung cấp cho công chúng cái nhìn khách quan về mức độ nguy hiểm của việc lạm dụng rượu, bia so với các nguy cơ sức khỏe khác. Chẳng hạn, các số liệu nghiên cứu chỉ ra rằng chế độ dinh dưỡng không lành mạnh (ăn nhiều muối đường, ít rau quả) thực sự là yếu tố rủi ro gây tử vong còn lớn hơn cả rượu, bia - với khoảng 11 triệu ca tử vong mỗi năm trên toàn cầu, tương đương 1/5 tổng số tử vong. Con số này cao gấp gần 4 lần số tử vong do rượu, bia (khoảng hơn 3 triệu ca/năm). Thông tin này không nhằm “chạy tội” cho rượu, bia, mà để nhấn mạnh một cách khách quan rằng sức khỏe con người bị đe dọa bởi nhiều yếu tố, trong đó rượu, bia là một mảnh ghép của bức tranh lớn về bệnh không lây nhiễm.

 

Cùng với đó, ở góc độ cảnh báo tác hại, truyền thông vẫn phải nêu bật những hậu quả nghiêm trọng của uống rượu, bia không kiểm soát. Đây là nội dung quan trọng để tạo động lực sợ hãi có ích khiến người dân cân nhắc thay đổi. Những con số về bệnh tật và tử vong, các câu chuyện thương tâm về tai nạn do rượu, gia đình tan vỡ vì nghiện rượu… cần được truyền tải mạnh mẽ. Chẳng hạn, hình ảnh một thanh niên nằm trên giường bệnh với chẩn đoán xơ gan do uống rượu từ năm 20 tuổi, hay cảnh một em nhỏ mồ côi cha mẹ vì tai nạn xe do tài xế say rượu - đó là những thông điệp gây ấn tượng cảm xúc mạnh.

 

“Uống có trách nhiệm, uống có kiểm soát” - thông điệp này chỉ thực sự thấm sâu khi chúng ta huy động được sức mạnh tổng hợp của truyền thông và cộng đồng. Có thể thấy truyền thông giữ vai trò dẫn dắt, định hướng dư luận và hành vi, còn cộng đồng là nơi hiện thực hóa những thay đổi đó trong đời sống hằng ngày. Truyền thông đa chiều cân bằng giữa cảnh báo và khích lệ - tất cả đều nhằm mục tiêu chung: giảm gánh nặng bệnh tật và xã hội do rượu bia, xây dựng một lối sống lành mạnh hơn cho người dân.

 

ThS. Ngô Vĩnh Bạch Dương

 

Tiếp theo, tọa dàm diễn ra với tham luận của ThS. Ngô Vĩnh Bạch Dương với chủ đề “Pháp luật về kiểm soát các yếu tố nguy cơ gây bệnh không lây nhiễm: Kinh nghiệm quốc tế và gợi ý cho Việt Nam”. Tác giả đã chia sẻ kinh nghiệm về kiểm soát chế độ ăn không lành mạnh ở Vương quốc Anh, Mexico, Nam Phi, Đan Mạch và một số nước khác nữa thông qua việc áp dụng chính sách thuế đối với thực phẩm và đồ uống, ghi nhãn dinh dưỡng mặt trước bao bì cũng như việc hạn chế tiếp thị và cải tổ công thức sản phẩm.

 

Việt Nam đã có những bước tiến quan trọng trong việc xây dựng khung pháp lý để kiểm soát các yếu tố nguy cơ bệnh không lây nhiễm, tuy nhiên vẫn còn tồn tại những khoảng trống và thách thức. Luật Phòng, chống tác hại của rượu, bia năm 2019 quy định cấm tuyệt đối nồng độ cồn khi điều khiển phương tiện giao thông (Khoản 6, Điều 5) là một biện pháp rất mạnh mẽ, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao, phù hợp với bối cảnh giao thông phức tạp của Việt Nam. Luật cũng quy định rõ các địa điểm cấm bán và cấm uống rượu, bia, góp phần giảm tính sẵn có của sản phẩm. Với Luật An toàn thực phẩm 2010, luật này chủ yếu tập trung vào khái niệm “an toàn” theo nghĩa vệ sinh, tức là đảm bảo thực phẩm không bị ô nhiễm vi sinh vật, hóa chất độc hại hay gây ngộ độc cấp tính. Đây là một “khoảng trống pháp lý” lớn, vì Luật hiện chưa có cơ sở để kiểm soát các loại thực phẩm “không lành mạnh” do thành phần dinh dưỡng mất cân bằng (giàu năng lượng, chất béo bão hòa, đường, muối), vốn là nguyên nhân chính gây ra các bệnh không lây nhiễm. Do đó, Việt Nam hiện thiếu nền tảng pháp lý để ban hành các quy định bắt buộc về ghi nhãn cảnh báo dinh dưỡng mặt trước hoặc hạn chế quảng cáo thực phẩm có đường, chất béo, muối. Liên quan đến vấn đề này còn có Luật Thuế tiêu thụ đặc biêt và Luật Quảng cáo.

 

Sau đó, ThS. Ngô Vĩnh Bạch Dương đề xuất một số giải pháp, trong đó có việc cần xây dựng một khung pháp lý liên kết và toàn diện cho thực phẩm có đường, chất béo, muối, cụ thể là: (i) Sửa đổi Luật An toàn thực phẩm để định nghĩa rõ ràng về thực phẩm HFSS, tạo cơ sở pháp lý cho các biện pháp kiểm soátl; (ii) Giao Viện Dinh dưỡng Quốc gia chủ trì, phối hợp với các chuyên gia quốc tế để nghiên cứu và đề xuất hệ thống nhãn cảnh báo, với các ngưỡng dinh dưỡng phù hợp với khẩu phần và bối cảnh Việt Nam; (iii) Quy định rõ ràng trong văn bản pháp quy rằng việc một sản phẩm phải dán nhãn cảnh báo sẽ tự động kích hoạt các hạn chế tương ứng trong Luật Quảng cáo (cấm quảng cáo cho trẻ em) và các quy định về môi trường học đường (cấm bán trong trường học).

 

PGS.TS. Trần Đắc Phu giới thiệu những nội dung chính trong dự thảo Luật Phòng bệnh

 

Tham luận cuối tại tọa đàm, “Chiến lược quốc gia về không lây nhiễm và những nội dung chính trong dự thảo Luật Phòng bệnh” của PGS.TS. Trần Đắc Phu. Ông cho biết, mục tiêu của chiến lược là khống chế tốc độ gia tăng tiến tới làm giảm tỷ lệ người mắc bệnh tại cộng đồng, hạn chế tàn tật và tử vong sớm do mắc các bệnh không lây nhiễm. Ưu tiên phòng, chống các bệnh ung thư, tim mạch, đái tháo đường, bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính và hen phế quản nhằm góp phần bảo vệ, chăm sóc, nâng cao sức khỏe của nhân dân và phát triển kinh tế, xã hội. Dự thảo Luật Phòng bệnh gồm 6 chương, 46 điều. Tác giả đã phân tích một số điều chính. Trong đó, điều 25 về phòng, chống yếu tố nguy cơ gây bệnh không lây nhiễm tại cộng đồng. Theo đó, phòng, chống các yếu tố nguy cơ gây bệnh không lây nhiễm được thực hiện thông qua các hoạt động bảo đảm dinh dưỡng hợp lý, tăng cường hoạt động thể lực, phòng, chống các yếu tố nguy cơ liên quan đến bệnh không lây nhiễm. Bộ trưởng Bộ Y tế quy định các biện pháp phòng, chống các yếu tố nguy cơ gây bệnh không lây nhiễm.

 

Trao đổi tại tọa đàm, TS. Phạm Thị Hương Lan (Viện Nhà nước và Pháp luật) cho rằng, chủ đề của tọa đàm rất hữu ích. TS. Hương Lan quan tâm đến dinh dưỡng không lành mạnh và mong muốn Viện Dinh dưỡng (Bộ Y tế) thường xuyên đưa ra các kế hoạch, chiến dịch tuyên truyền giúp người dân hiểu mà thay đổi thói quen để ăn uống hợp lý hơn. TS. Hương Lan cũng bình luận về vấn đề kiểm soát thực phẩm an toàn và nhu cầu sử dụng rượu, bia trong đời sống. 

 

TS. Hoàng Thị Mỹ Hạnh trao đổi tại tọa đàm

 

Theo TS. Hoàng Thị Mỹ Hạnh (Viện Chiến lược và Chính sách y tế, Bộ Y tế), để tạo môi trường dinh dưỡng lành mạnh thì phạm vi điều chỉnh của hai đạo luật là Luật An toàn thực phẩm và Luật Phòng bệnh là chưa đủ. Với trẻ em, môi trường dinh dưỡng lành mạnh có thể thực hiện được trong bữa ăn nhà trường. Nhưng bên ngoài cổng trường lại là một môi trường khác nên vấn đề dinh dưỡng không hề đơn giản. Về tác hại của rượu, bia, Tiến sĩ nhìn nhận, sau 5 năm triển khai, các giải pháp của Luật Phòng, chống tác hại của rượu, bia thể hiện còn yếu, chẳng hạn trong việc kiểm soát người uống hay kiểm soát quảng cáo.

 

Tọa đàm cũng đón nhận những ý kiến trao đổi, thảo luận của các chuyên gia, nhà khoa học và giới truyền thông về nhiều vấn đề liên quan.

 

Phát biểu kết thúc tọa đàm, PGS.TS. Nguyễn Thị Việt Hương cám ơn các đại biểu đã nhiệt tình đến dự, trình bày tham luận cũng như đưa ra ý kiến thảo luận cởi mở về nhiều vấn đề liên quan đến nội dung của tọa đàm.

Các tin cùng chuyên mục: