Tọa đàm vui mừng chào đón sự tham dự của đ/c Cao Việt Thăng (Chi ủy viên Viện Nhà nước và Pháp luật), đ/c Nguyễn Chí Công (Phó Bí thư Ban chấp hành Đoàn Thanh niên Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam), đ/c Nguyễn Thanh Bình (Ủy viên Ban thường vụ Đoàn Thanh niên Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam) cùng đông đảo đoàn viên, thanh niên Chi đoàn Viện Nhà nước và Pháp luật. Chủ trì tọa đàm là đ/c Phạm Hồng Nhật (Bí thư Chi đoàn Viện Nhà nước và Pháp luật).

Đ/c Cao Thị Lê Thương trình bày tham luận mở đầu tọa đàm
Mở đầu tọa đàm là tham luận của đ/c Cao Thị Lê Thương với chủ đề “Chính sách pháp luật về quyền sở hữu trí tuệ đối với tác phẩm được tạo ra bởi trí tuệ nhân tạo”. Theo Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới (WIPO), khái niệm tác phẩm được tạo ra bởi trí tuệ nhân tạo (AI) phân biệt rõ ràng 2 loại: do AI tạo ra và do AI tự động tạo ra. Trong trường hợp này, AI có thể thay đổi hành vi trong quá trình hoạt động để phản hồi thông tin hoặc sự kiện bất ngờ. Điều này cần được phân biệt với các kết quả đầu ra “được AI hỗ trợ (AI-assisted)” được tạo ra với sự can thiệp và/hoặc chỉ đạo cụ thể của con người. Quyền tác giả có 3 đặc điểm chính: (i) Được tự động bảo hộ ngay khi tác phẩm được hình thành; (ii) Có tính nguyên gốc; (iii) Bảo hộ theo hình thức thể hiện của tác phẩm (cấu trúc, cách trình bày, ngôn ngữ, hình ảnh…). Tác giả đã đưa ra các ví dụ và các tiêu chí về tính nguyên gốc, yêu cầu rõ ràng về con người là tác giả cũng như cụm từ pháp lý chính thể hiện yếu tố con người được quy định ở một số quốc gia, khu vực như Việt Nam, Mỹ, Anh, Trung Quốc, Liên minh châu Âu.
Tác giả đã phân tích nhu cầu điều chỉnh pháp luật về quyền sở hữu trí tuệ đối với tác phẩn được tạo ra bởi AI. Như WIPO đã nêu trong Hướng dẫn khảo sát đóng góp kinh tế của các ngành công nghiệp bản quyền, Luật bản quyền được thiết kế để thiết lập sự cân bằng hợp lý giữa các tác động kinh tế khác nhau, đầu tư thời gian cần thiết vào các sáng tạo văn hóa, phân phối hợp lý chúng cũng như bảo vệ và thực thi các sáng tạo văn hóa, các quyền liên quan. Sự cân bằng này được thể hiện thông qua chức năng và tinh thần của pháp luật. Đối với sự phát triển mạnh mẽ của AI, khó có thể dự đoán được tác động của nó với kinh tế.
Từ những lập luận, phân tích đã nêu, báo cáo nhận định, cần có quy định pháp luật xác định các tiêu chí bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm do AI tạo ra. Một trong những tiêu chí quan trọng trong quá trình đánh giá này vẫn là tính nguyên gốc, hay dấu ấn sáng tạo của bản thân tác giả hiện hữu trong tác phẩm của mình. Thứ hai, cần xây dựng quy định pháp luật nhằm xác định chủ thể của quyền tác giả đối với tác phẩm từ AI.
Trao đổi về tính nguyên gốc, tính nguyên bản (originality) của sản phẩm trong đặc điểm của quyền tác giả được tạo ra bởi AI, đ/c Nguyễn Tiến Đức cho biết, các nhà lập pháp ở một số quốc gia nhìn nhận phải xuất phát từ nhân tính, tức là phải 100% từ con người, tuy nhiên ở một số quốc gia khác với nền kinh tế trẻ hơn, năng động hơn có thể chấp nhận yếu tố này không phải là 100% vẫn có thể bảo hộ những sản phẩm được tạo ra bởi AI.

Đ/c Phạm Hồng Nhật
Tiếp theo, đ/c Phạm Hồng Nhật trình bày tham luận “Tác động của trí tuệ nhân tạo đối với một số nguyên tắc cơ bản trong pháp luật quốc tế”. Trong đó, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực là một trong những nguyên tắc cơ bản mà AI đang tạo ra những tác động phức tạp và sâu rộng đến. Đây là một trong những nguyên tắc nền tảng của Hiến chương Liên hợp quốc. Đó là sự thay đổi bản chất của chiến tranh và vũ lực khi AI đang làm mờ ranh giới giữa chiến tranh và hòa bình, cũng như giữa hành động của một quốc gia và hành vi của các tác nhân phi nhà nước. AI có thể được sử dụng để tiến hành các cuộc tấn công mạng quy mô lớn và tinh vi, gây thiệt hại nghiêm trọng cho cơ sở hạ tầng của một quốc gia. Việc xác định liệu một cuộc tấn công mạng có cấu thành “sử dụng vũ lực” theo Điều 2(4) của Hiến chương Liên hợp quốc hay không là một câu hỏi gây tranh cãi. Sự ra đời của máy bay không người lái (drone) và các hệ thống vũ khí nano tự động cho phép các quốc gia thực hiện các cuộc tấn công chính xác mà không cần triển khai binh lính, làm giảm rủi ro về người. Điều này có thể khiến các quốc gia dễ dàng hơn trong việc sử dụng vũ lực, từ đó làm suy yếu nguyên tắc không sử dụng vũ lực.
Các đại biểu tại Đại hội đồng Liên hợp quốc lần thứ 80 tổ chức tháng 9/2025 thừa nhận rằng AI, nếu được sử dụng một cách có trách nhiệm, có thể hỗ trợ bảo vệ nhân đạo thay vì làm suy yếu nó. Viện giải trừ quân bị Liên hợp quốc (UNIDIR) đã nhấn mạnh cách các ứng dụng AI có thể giúp quân đội duy trì tốt hơn các nguyên tắc về sự khác biệt, tính tương xứng và sự thận trọng. Cụ thể là:
- Chỉ huy và kiểm soát: Các công cụ hỗ trợ quyết định có thể giúp chỉ huy, tích hợp, đánh giá tính tương xứng vào kế hoạch, có khả năng giảm thiểu thiệt hại cho dân thường.
- Trí tuệ và giám sát: Hệ thống AI có thể nâng cao nhận thức tình huống bằng cách phân tích luồng dữ liệu lớn, cho phép phát hiện nhanh hơn các vi phạm hoặc rủi ro.
- Hậu cần và đào tạo: Bảo trì dự đoán có thể ngăn ngừa hỏng hóc thiết bị, trong khi mô phỏng thực tế có thể chuẩn bị lực lượng tốt hơn cho môi trường phức tạp.
- Hỗ trợ phi sát thương: AI có thể được sử dụng để nâng cao khả năng chẩn đoán y tế cho nhân viên được triển khai và tăng cường quản lý chuỗi cung ứng, đảm bảo rằng các cân nhắc về nhân đạo không bị bỏ qua.

Đ/c Nguyễn Tiến Đức trao đổi về tính nguyên bản trong đặc điểm của quyền tác giả được tạo ra bởi AI
Những ví dụ này cho thấy AI không phải là yếu tố gây bất ổn; thay vào đó, kết quả phụ thuộc vào việc các hệ thống có được thiết kế và triển khai một cách có trách nhiệm hay không. Như UNIDIR lưu ý, “Nếu được phát triển, triển khai và sử dụng một cách có trách nhiệm, AI có thể tăng hiệu quả hoạt động, đồng thời cung cấp những phương thức mới để giảm thiểu rủi ro và tác hại”. Do đó, thách thức không chỉ là vạch ra những ranh giới đỏ mà còn thúc đẩy đổi mới có trách nhiệm, giúp tăng cường tuân thủ luật nhân đạo.
Các đại biểu, nhà khoa học đã trao đổi về việc lạm dụng AI và chuẩn mực đạo đức trong việc sử dụng AI trong các cuộc tấn công mạng cũng như các vấn đề khác liên quan đến chủ đề của tọa đàm.
Tham luận cuối tại tọa đàm là của đ/c Trần Tuấn Minh có chủ đề “Tội phạm công nghệ cao ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp”. Về thực trạng quy định pháp luật, hiện nay, hình phạt chủ yếu áp dụng đối với loại tội phạm này là hình phạt tù, trong đó mức hình phạt cao nhất lên đến 20 năm tù. Bên cạnh đó, còn có các hình phạt bổ sung khác như hình phạt tiền, tịch thu tài sản, cấm hành nghề.
Nhìn chung, Việt Nam đã tạo được hành lang pháp lý ban đầu thể hiện ở mục 2 Chương 16 Bộ luật Hình sự năm 2015 với nhiều quy định điều chỉnh tội phạm cụ thể trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông và bước đầu đã đạt được một số hiệu quả trong đấu tranh phòng chống tội phạm thể hiện thông qua việc triệt phá hàng trăm chuyên án lớn, xuyên quốc gia. Tuy nhiên, vẫn còn những hạn chế, tồn tại xuất phát từ khung pháp lý cũng như trong thực tiễn thi hành. Trước tiên, Bộ luật Hình sự quy định trách nhiệm hình sự phần lớn là đối với cá nhân. Đây là lỗ hổng khá lớn bởi vì tội phạm sử dụng công nghệ cao là doanh nghiệp chiếm tỷ lệ khá lớn. Những vấn đề còn tồn tại, bất cập khác có thể kể đến là chứng cứ điện tử, tiền mã hóa, tương trợ tư pháp.
Đề tài đưa ra 3 giải pháp chính nhằm hoàn thiện chính sách pháp luật hình sự đối với nhóm tội phạm sử dụng công nghệ cao. Thứ nhất, hoàn thiện các quy định về tội phạm sử dụng công nghệ cao. Cụ thể, Bộ luật Hình sự cần quy định thêm về trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại, tội phạm hóa những hành vi mới. Thứ hai, hoàn thiện các thủ tục tố tụng hình sự với các quy định về chứng cứ điện tử. Sớm ban hành các thông tư, nghị quyết để hướng dẫn chuẩn hóa quy trình thu thập, giám định, phục hồi đối với chứng cứ điện tử. Thứ ba, nâng cao năng lực thực thi và hội nhập quốc tế.

Đ/c Cao Việt Thăng phát biểu chỉ đạo tại tọa đàm
Phát biểu tại tọa đàm, đ/c Cao Việt Thăng hoan nghênh Chi đoàn đã chủ động trong việc tổ chức tọa đàm trong bối cảnh Viện trong thời gian này đang diễn ra rất nhiều hoạt động chuyên môn bận rộn. Chi ủy mong muốn Chi đoàn tiếp tục phát huy sự tiên phong, sáng tạo của đoàn viên, thanh niên trong các hoạt động khoa học cũng như hoạt động phong trào của Viện.
Tọa đàm cũng nhận được ý kiến của đ/c Nguyễn Chí Công. Đồng chí cho rằng, chủ đề của tọa đàm cùng những nội dung của các tham luận thật sự mới và thú vị. Những trao đổi, thảo luận diễn ra rất thẳng thắn, ấn tượng và tích cực. Đồng chí cám ơn Chi ủy Viện Nhà nước và Pháp luật đã luôn quan tâm đến các hoạt động của Chi đoàn.
Phát biểu kết thúc tọa đàm, đ/c Phạm Hồng Nhật cám ơn sự tham gia và đóng góp ý kiến, thảo luận nhiệt tình của đông đảo các đồng chí đoàn viên, thanh niên.