•  
     
  •  
     
  •  
     
  •  
     
  •  
     
LIÊN KẾT WEBSITE

Hội thảo “Thực trạng chính sách, pháp luật về biên giới đất liền trong phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh ở Việt Nam hiện nay”

18/06/2024
Đây là hội thảo khoa học của Đề tài cấp Bộ “Chính sách, pháp luật về biên giới đất liền trong phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh ở Việt Nam hiện nay” diễn ra ngày 06/06/2024 tại 27 Trần Xuân Soạn, Hai Bà Trưng, Hà Nội. Đề tài do TS. Phạm Thị Hương Lan làm chủ nhiệm.

TS. Phạm Thị Hương Lan chủ trì hội thảo

 

Hội thảo chào đón sự có mặt của đại diện các bộ, ban, ngành: ông Lê Như Xuyên (Phó Vụ trưởng Vụ Giáo dục Dân tộc, Bộ Giáo dục và Đào tạo), TS. Dương Thị Lan Hương (Viện Khoa học Giáo dục, Bộ Giáo dục và Đào tạo), TS. Đại tá Nguyễn Thị Quế Thu (Bộ Công an), ông Phạm Quang Lưu (Phòng Pháp chế, Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng), ông Đào Thịnh Vinh (Phó Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Tổng cục Hải quan).

 

Đến dự hội thảo còn có đại diện Lãnh đạo Viện, các nhà khoa học và giảng viên tại các cơ sở giáo dục: TS. Phạm Thị Thúy Nga (Phó Viện trưởng phụ trách Viện Nhà nước và Pháp luật), PGS.TS. Phạm Hữu Nghị (nguyên Tổng Biên tập Tạp chí Nhà nước và Pháp luật), TS. Trần Minh Nguyệt (Chủ nhiệm Bộ môn Luật Hành chính, Học viện Biên phòng), TS. Đào Xuân Hội (Trưởng Khoa Luật, Đại học Lao động Xã hội)... các thành viên của đề tài và các cán bộ nghiên cứu của Viện Nhà nước và Pháp luật.

 

TS. Phạm Thị Hương Lan chủ trì Hội thảo phát biểu khai mạc và định hướng các nội dung hội thảo liên quan đến thực trạng chính sách, pháp luật về biên giới đất liền trong phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh ở nước ta hiện nay . TS. Phạm Thị Hương Lan cho rằng, để phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh quốc gia ở biên giới đất liền cần có chính sách, pháp luật thật sự hiệu quả và phù hợp với thực tiễn cuộc sống. Hiện nay, hệ thống chính sách, pháp luật về biên giới đất liền ở nước ta đã hình thành từ lâu và có xu hướng ngày càng gia tăng về số lượng. Tuy nhiên, thực tiễn ở biên giới đất liền hiện nay đòi hỏi chính sách, pháp luật phải ngày càng hoàn thiện hơn, mang lại hiệu quả cao đồng thời phải tạo cơ hội, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm an ninh, quốc phòng cho khu vực biên giới đất liền.

 

Tham luận mở đầu hội thảo là của ông Lê Như Xuyên (Vụ Giáo dục Dân tộc, Bộ Giáo dục và Đào tạo), Chính sách, pháp luật về biên giới đất liền trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo: Thực trạng và những vấn đề đặt ra ở Việt Nam hiện nay. Khu vực biên giới đất liền của nước ta hầu hết là địa bàn có đông đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi (DTTS, MN) sinh sống. Vì vậy, về cơ bản, việc thực hiện các chính sách trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo tại các xã thuộc khu vực biên giới đất liền là thực hiện chính sách phát triển giáo dục vùng đồng bào DTTS, MN.

 

Trong những năm qua, sự nghiệp giáo dục và đào tạo vùng đồng bào DTTS, MN đã nhận được sự quan tâm đặc biệt của của Đảng, Nhà nước thông qua các chủ trương, chính sách hỗ trợ, đầu tư phát triển. Nhờ đó, sự nghiệp giáo dục và đào tạo vùng DTTS, MN nói chung, khu vực biên giới đất liền nói riêng đã có những chuyển biến đáng kể. Hệ thống trường, lớp học được quan tâm đầu tư xây dựng ngày càng khang trang, đảm bảo đủ điều kiện để từng bước nâng cao chất lượng dạy và học. Tỷ lệ học sinh đến trường tăng cao, học sinh lưu ban, bỏ học ngày càng giảm. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THCS và THPT hằng năm tăng rõ rệt. Hệ thống giáo dục chuyên biệt (trường phổ thông dân tộc nội trú, trường phổ thông dân tộc bán trú, trường dự bị đại học) ngày càng phát huy hiệu quả tích cực. Chế độ cử tuyển đã góp phần đáng kể trong việc đào tạo cán bộ người DTTS có trình độ ở địa phương. Các chế độ, chính sách đối với cán bộ quản lý, giáo viên và người học là người DTTS được thực hiện đầy đủ, kịp thời, đúng quy định.

 

Ông Lê Như Xuyên (ngồi giữa) trình bày báo cáo

 

Tuy nhiên, giáo dục và đào tạo vùng đồng bào DTTS, MN nói chung, khu vực biên giới đất liền nói riêng còn nhiều bất cập. Mạng lưới trường lớp, điều kiện cơ sở vật chất, thiết bị dạy học đã được tăng cường đầu tư, nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển quy mô và nâng cao chất lượng giáo dục, đặc biệt ở một số trường chuyên biệt vùng DTTS, MN. Chất lượng giáo dục đào tạo nhìn chung còn thấp so với yêu cầu.

 

Từ thực tế áp dụng các chính sách được quy định trong Luật Giáo dục 2019, các nghị định của Chính phủ, quyết định của Thủ tướng Chính phủ, thông tư của Bộ Giáo dục và Đào tạo và các ngành khác, tác giả đã chỉ ra những vấn đề còn hạn chế, bất cập hiện nay.

 

Đó là, nguồn lực đầu tư cho thực hiện chính sách giáo dục còn hạn chế, chưa đáp ứng được nhu cầu; xã hội hóa nguồn lực đầu tư cho giáo dục rất khó thực hiện ở khu vực MN, vùng DTTS, vùng có điều kiện KTXH đặc biệt khó khăn. Mặc dù Chính phủ đã ưu tiên nguồn ngân sách trung ương, nhưng nhu cầu vốn để triển khai thực hiện các mục tiêu hoàn thiện cơ sở vật chất đối với các bậc học nhằm đạt chuẩn và chuẩn bị điều kiện để đổi mới chương trình sách giáo khoa tại địa bàn khó khăn, vùng biên giới rất lớn, trong khi đó vốn ngân sách trung ương và ngân sách địa phương còn hạn chế nên không đáp ứng được nhu cầu. Hầu hết các địa phương khu vực biên giới đất liền có tỷ lệ hộ nghèo cao do đó hết sức khó khăn trong việc bố trí nguồn lực phát triển giáo dục và đào tạo. Cùng với đó, nhận thức và nhu cầu học tập của một bộ phận đồng bào DTTS, MN khu vực biên giới chư­a cao, thu nhập thấp, đời sống khó khăn ảnh hưởng đến động cơ, thái độ học tập của con em.

 

Từ việc nhận diện những vấn đề nêu trên, tham luận đưa ra một số đề xuất kiến nghị cụ thể:

  • Chính phủ ban hành nghị định quy định một cách cụ thể về chính sách hỗ trợ để phổ cập giáo dục mầm non, tiểu học và trung học cơ sở ở vùng đồng bào DTTS, MN và vùng kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn;
  • Quan tâm đến chính sách đặc thù đối với đội ngũ nhà giáo công tác tại các khu vực đặc biệt khó khăn ở biên giới;
  • Các địa phương biên giới đất liền cần đặc biệt quan tâm tới công tác xóa mù chứ, xóa tái mù chữ và tiếp tục giáo dục sau biết chữ cho đồng bào DTTS, MN, đặc biệt là những người ở độ tuổi lao động (15-16 tuổi).

Toàn cảnh hội thảo

 

Tiếp theo, TS. Dương Thị Lan Hương (Viện Khoa học Giáo dục, Bộ Giáo dục và Đào tạo) trình bày tham luận “Một số chính sách, pháp luật về giáo dục cho dân tộc thiểu số ở nước ta hiện nay”. Trong bài viết, tác giả chỉ ra những hạn chế, bất cập trong thực hiện chính sách, pháp luật đối với giáo viên công tác ở các trường dân tộc nội trú và bán trú ở vùng đồng bào DTTS, MN. Đội ngũ giáo viên người Kinh sau một khoảng thời gian công tác ở vùng DTTS, MN thì có mong muốn trở về quê hương của mình nên không an tâm công tác; trong khi đó, đội ngũ giáo viên người DTTS là bản địa có nguyện vọng công tác lâu dài nhưng năng lực sư phạm lại hạn chế. Bên cạnh đó, giáo viên người Kinh thì không am hiểu văn hóa, phong tục, ngôn ngữ người DTTS còn giáo viên người DTTS thì am hiểu văn hóa, ngôn ngữ người dân tộc mình nhưng lại không am hiểu văn hóa, tập quán của người Kinh. Những hạn chế này ảnh hưởng rất lớn đến hệ thống giáo dục vùng DTTS mà Chính phủ đang triển khai, thực hiện. Ngoài ra, việc cho các cháu ở độ tuổi mầm non, tiểu học, THCS vào học tập trung ở những trường dân tộc nội trú, bán trú hay bán trú dân nuôi sẽ dẫn đến việc tách các cháu ra khỏi môi trường gia đình quá sớm, có thể dẫn đến việc các cháu không còn giữ được phong tục, bản sắc của dân tộc mình, không hiểu văn hóa của dân tộc mình. Ngoài những hạn chế trên, TS. Lan Hương cũng chỉ ra những khó khăn, bất cập khác nữa.

 

Vậy chúng ta cần làm gì để khắc phục, cải thiện những vấn đề này? Theo tác giả, Nhà nước cần có chế độ phụ cấp cho giáo viên và trợ cấp cho học sinh theo các chế độ ở trường nội trú và bán trú sao cho phù hợp với điều kiện kinh tế của từng địa phương, từng cơ sở giáo dục để làm sao cho các thày cô bám trường, bám lớp và các cháu được đáp ứng đủ các điều kiện về nơi ăn chốn ở để yên tâm học tập. Chúng ta cũng cần có sự rà soát, đánh giá thực trạng giáo dục DTTS trong 05 năm qua một cách toàn diện nhất để hệ thống lại và nhận diện những mặt được và chưa được về chất lượng giáo dục từ đó bổ sung, chỉnh sửa chính sách sao cho phù hợp.

 

Trao đổi tại hội thảo, Chủ nhiệm đề tài đồng ý với quan điểm của ông Lê Như Xuyên và TS. Dương Thị Lan Hương về việc không thể áp dụng chính sách một cách cào bằng cho tất cả các địa phương ở vùng biên giới đất liền và vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn với đội ngũ nhà giáo. Bởi lẽ, đề tài đã khảo sát và tổ chức hội thảo ở một số địa phương và nhận thấy có những nơi kinh tế phát triển nhưng có nơi lại rất khó khăn. Vậy cần dựa trên tiêu chí nào để xác định đâu là vùng khó khăn để từ đó đưa ra chính sách đặc thù và phù hợp với đội ngũ nhà giáo để họ yên tâm công tác? Trả lời câu hỏi này, ông Như Xuyên nhìn nhận, để đưa ra chính sách thì cần dựa trên cơ sở pháp lý mà cao nhất là luật. Hiện nay, Chính phủ đang xây dựng dự thảo Luật Nhà giáo thì nội dung phải rất cụ thể và đặc thù, trong đó có quy định ưu tiên về biên chế cho đội ngũ nhà giáo đang công tác ở địa bàn biên giới nơi có những yếu tố mang tính nhạy cảm là dân tộc và tôn giáo, cũng như ở vùng khó khăn và đặc biệt khó khăn.

 

TS. Dương Thị Lan Hương (bên trái) và TS. Nguyễn Tiến Đức

 

Tham luận tiếp theo có chủ đề “Chính sách, pháp luật về biên giới đất liền trong quản lý, phát triển dân cư” của TS. Nguyễn Tiến Đức (Viện Nhà nước và Pháp luật). Bài viết tập trung phân tích những hạn chế, bất cập trong chính sách, pháp luật ở những lĩnh vực: di cư; hộ tịch; hôn nhân và gia đình; xuất, nhập cảnh; nhận con nuôi có yếu tố nước ngoài... Về vấn đề hôn nhân, xu hướng kết hôn xuyên biên giới ở Việt Nam đang có sự chuyển biến đáng chú ý. Kết quả khảo sát xã hội học cho thấy tỷ lệ kết hôn xuyên biên giới có đăng ký rất thấp, chủ yếu do thủ tục phức tạp và người kết hôn thường là phụ nữ dân tộc thiểu số không đủ điều kiện. Hôn nhân xuyên biên giới thường xuất phát từ các mối quan hệ lao động hoặc mong muốn đổi đời, nên thường diễn ra chui, không khai báo với chính quyền, gây khó khăn cho việc đăng ký kết hôn. Thực trạng trên cho thấy, việc đăng ký kết hôn của các cặp vợ chồng sống ở hai bên biên giới còn rất hạn chế. Điều này gây khó khăn cho công tác quản lý nhà nước.

 

Về vấn đề di cư, việc di cư tự do có thể gây ra nguy cơ mất an ninh trật tự, đặc biệt là ở các khu vực biên giới, nơi tình hình phức tạp và khó kiểm soát, tạo điều kiện cho các hoạt động phi pháp: buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa, ma túy và người qua biên giới. Các đối tượng xấu có thể lợi dụng tình trạng di cư tự do để xâm nhập vào Việt Nam và thực hiện các hoạt động gián điệp, phá hoại an ninh quốc gia. Thực trạng này ảnh hưởng tiêu cực tới chiến lược quốc phòng – an ninh, thế trận biên phòng toàn dân của Đảng và Nhà nước.

 

ThS.  Ngô Vĩnh Bạch Dương phát biểu ý kiến

 

Thảo luận về việc phát triển dân cư, theo ThS. Ngô Vĩnh Bạch Dương (Viện Nhà nước Pháp luật), vấn đề sinh kế và cung cấp, đáp ứng được dịch vụ y tế, giáo dục cho người dân là quan trọng nhất. Có như thế thì tình trạng buôn lậu, mua bán người và các hoạt động bất hợp pháp khác sẽ giảm đi đáng kể. Nhìn chung, cần có sự điều tra, khảo sát, đưa vào quy hoạch từ trước nhằm biết được vùng đó phù hợp cho việc thực hiện hoạt động gì để đưa ra chính sách kinh tế - xã hội hợp lý, bảo đảm sinh kế cho người dân.

 

Về quản lý dân cư, PGS.TS. Phạm Hữu Nghị cho rằng, đề tài cần nghiên cứu, xác định theo các yếu tố: ai quản lý, đối tượng quản lý là ai, nội dung và phương thức quản lý. Trong đó, chủ thể quản lý bao gồm nhiều thành phần, không chỉ chính quyền địa phương (xã, thôn, ấp, bản…) mà còn có bộ đội biên phòng, các tổ chức chính trị - xã hội như Mặt trận tổ quốc, Hội phụ nữ… Về đối tượng quản lý thì mỗi vùng có sự khác nhau, có vùng thì phần lớn là người dân tộc thiểu số nhưng có vùng thì không chỉ có người dân tộc thiểu số mà còn có đối tượng vãng lai, nghiện hút, giang hồ… Với từng đối tượng thì ta cần có chính sách quản lý phù hợp.

 

Hội thảo tiếp tục lắng nghe tham luận của TS. Đại tá. Nguyễn Thị Quế Thu (Bộ Công an) với tiêu đề “Chính sách, pháp luật về bảo đảm an ninh, trật tự xã hội nhằm phục vụ phát triển kinh tế - xã hội ở biên giới đất liền”. Tác giả đã giới thiệu những nội dung chính của một số đạo luật: Luật Xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam và Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam vừa được sửa đổi, bổ sung năm 2023; Luật Phòng, chống mua bán người 2011 và những nội dung mới trong dự thảo sửa đổi; Đề án 06 về định danh và xác thực điện tử trong quản lý dân cư trên môi trường số và mới nhất là Luật Căn cước 2023 có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2024. Tác giả đang tiếp tục nghiên cứu các chính sách, pháp luật khác để từ đó đưa ra những kiến nghị, giải pháp để bảo đảm an ninh, trật tự xã hội nhằm phát triển kinh tế - xã hội ở các vùng biên giới đất liền.

 

Ông Đào Thịnh Vinh (giữa) và đ/c Phạm Quang Lưu (bên phải)

 

Tại hội thảo, ông Đào Thịnh Vinh (Vụ Pháp chế, Tổng cục Hải quan) đưa ra ý kiến trao đổi về những bất cập trên thực tế trong xuất nhập khẩu hàng hóa. Ở An Giang, một số vị trí chưa thể phân giới cắm mốc ở dòng sông chung giữa Việt Nam và Campuchia gần cửa khẩu Khánh Bình. Việc phòng chống, kiểm soát buôn lậu, gian lận thương mại gặp nhiều khó khăn do các đối tượng có thể di chuyển trên sông một cách dễ dàng khi chưa có phao, thiết bị phân giới cắm mốc. Ngoài ra, ở nhiều vùng, khu vực biên giới khác, việc vận chuyển hàng hóa giữa hai nước diễn ra quá tiện lợi nên gây khó khăn cho việc quản lý chất lượng, nguồn gốc, hàng cấm, hàng giả cũng như thuế… Do đó, ông đồng tình với các ý kiến của các đại biểu trước đã nêu là Nhà nước cần có chính sách riêng phù hợp với từng vùng, từng khu vực, từng địa phương để có thể quản lý một cách hiệu quả.

 

Về hoạt động của bộ đội biên phòng trong việc thực hiện chính sách, pháp luật về biên giới đất liền, đồng chí Phạm Quang Lưu (Phòng Pháp chế, Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng) chia sẻ về các vấn đề giáo dục, quản lý dân cư, phòng chống gian lận thương mại… Hiện nay, về giáo dục, bộ đội biên phòng vẫn thường xuyên đến tận bản, tận nhà để thuyết phục các con đến trường cũng như trực tiếp dạy học, xóa mù chữ và thực hiện chế độ con nuôi. Ông cho rằng, bên cạnh việc đảm bảo điều kiện công tác, thu nhập cho giáo viên thì cũng cần tập trung không chỉ vào người học mà cả các thành viên gia đình của người học, làm sao để thuyết phục được ông bà, bố mẹ của người học hiểu, an tâm cho con cháu họ đến trường trong bối cảnh điều kiện kinh tế của gia đình vẫn còn rất nhiều khó khăn, thiếu việc làm.

 

Đ/c Phạm Quang Lưu đã chỉ ra một số bất cập trong quy định pháp luật hiện hành. Chẳng hạn, bộ đội biên phòng không có thẩm quyền điều tra hình sự đối với các tội sản xuất, buôn bán, tàng trữ hàng cấm, hàng giả theo quy định tại Điều 190 Bộ luật Hình sự 2015 nhưng trong thực tiễn thì bộ đội biên phòng lại là lực lượng chính phát hiện được rất nhiều vụ việc liên quan đến các tội này. Về kiến nghị hoàn thiện chính sách, pháp luật, tác giả đưa ra một số giải pháp chính, đó là: (i) Tham mưu cho chính quyền các cấp thực hiện hiệu quả các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, tạo việc làm ổn định, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân; (ii) Đẩy mạnh việc tuyên truyền, giáo dục nhân dân trong đấu tranh, tố giác tội phạm và không tiếp tay cho tội phạm; (iii) Các lực lượng biên phòng, công an, hải quan có sự phối hợp thường xuyên, chặt chẽ với nhau.

 

Hội thảo còn diễn ra khá nhiều các tham luận cũng như đón nhận các ý kiến trao đổi, thảo luận khác liên quan đến thực trạng chính sách, pháp luật về biên giới đất liền trong phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh ở nước ta hiện nay và đã kết thúc thành công tốt đẹp.