•  
     
  •  
     
  •  
     
  •  
     
  •  
     
LIÊN KẾT WEBSITE

Sinh hoạt khoa học đề tài cơ sở tổ chức ngày 02/10/2023

11/10/2023
Vào ngày 02/10/2023, Viện Nhà nước và Pháp luật đã tổ chức hoạt động khoa học của 02 đề tài cấp cơ sở năm 2023 tại trụ sở 27 Trần Xuân Soạn, Hà Nội.

Đề tài thứ nhất báo cáo kết quả nghiên cứu là của ThS. Nguyễn Thị Hưng, Mô hình quản trị địa phương tại Cộng hòa Pháp và gợi mở cho Việt Nam.

 

Trong Chương 1, tác giả trình bày những vấn đề lý luận về mô hình quản trị địa phương (QTĐP) ở Cộng hòa Pháp bao gồm: (i) Khái niệm QTĐP và mô hình QTĐP; (ii) Đặc điểm, các yếu tố ảnh hưởng đến việc QTĐP; (iii) Ý nghĩa, vai trò của QTĐP trong sự phát triển. Theo Hiến chương châu Âu về Tự quản địa phương năm 1985, QTĐP được định nghĩa là tổng thể cấu trúc tổ chức, những mô hình, những mối liên hệ giữa trung ương và địa phương. Hiện nay, trên thế giới có 2 cách phân chia cơ bản về mô hình QTĐP, đó là: Theo cấp chính quyền (2 cấp, 3 cấp, 4 cấp hoặc 5 cấp) và theo mối quan hệ giữa trung ương và địa phương (với 3 mô hình điển hình ở Anh, Pháp, Đức).

 

ThS. Nguyễn Thị Hưng báo cáo kết quả nghiên cứu

 

Qua nghiên cứu, Đề tài nhìn nhận ý nghĩa, vai trò của QTĐP trong sự phát triển là tăng tính trách nhiệm của chính quyền địa phương, góp phần phòng ngừa tiêu cực và tham nhũng, nâng cao đời sống kinh tế – xã hội tại địa phương. Bởi lẽ, đặc trưng của QTĐP là tính minh bạch và trách nhiệm giải trình, khi các yếu tố này được nâng cao thì sự độc quyền và tự quyết sẽ giảm đi, từ đó, giúp cho tình trạng tiêu cực, tham nhũng được ngăn chặn, đẩy lùi.

 

Tiếp theo, Đề tài giới thiệu, phân tích mô hình QTĐP tại Pháp theo các nội dung: Lịch sử hình thành chế độ QTĐP; tổ chức đơn vị hành chính lãnh thổ; ngân sách địa phương; cơ chế kiểm soát chính quyền địa phương. Tại Pháp, tổ chức đơn vị hành chính ở địa phương theo các cấp thứ tự từ dưới lên là xã, tỉnh, vùng. Ở cấp xã, nguyên tắc đầu tiên trong phân loại đơn vị hành chính ở xã là thừa nhận hiện trạng tự nhiên, vốn có của các cộng đồng dân cư cơ sở. Các xã ở Pháp dù quy mô dân số, vị trí địa lý hay kinh tế, xã hội khác nhau, nhưng các địa phương bình đẳng về mặt pháp lý. Hội đồng xã có quyền thảo luận và ra nghị quyết đối với các vấn đề quan trọng của xã. Trong khi đó, Vùng là đơn vị hành chính lớn nhất, các vùng được quản lý bởi một hội đồng vùng. Hội đồng vùng không có quyền can thiệp đến mọi tài sản nhân danh lợi ích công của địa phương.

 

Về ngân sách địa phương, ThS. Nguyễn Thị Hưng cho biết, có một Ủy ban tài chính địa phương gồm các thành viên là đại diện được bầu từ các khu vực và ban ngành để kiểm soát phân bổ kinh phí và cung cấp cho Chính phủ và Quốc hội những phân tích cần thiết cho việc xây dựng các quy định của luật tài chính ảnh hưởng đến chính quyền địa phương. Hàng năm, cơ quan này lập báo cáo tài chính gửi cho các địa phương để thu thập, phân tích dữ liệu nhằm đánh giá việc thực hiện chính sách công của các chính quyền địa phương.

 

Cấu trúc bộ máy chính quyền của Pháp được xây dựng dựa trên địa giới hành chính. Theo Khoản 1 Điều 4141 Bộ luật khung về chính quyền địa phương, với cấp Vùng thì Vùng trưởng, có trụ sở và bộ máy làm việc riêng, là cơ quan đại diện cho Tổng thống và các thành viên của Chính phủ kiểm tra, giám sát các văn bản quy phạm pháp luật, các quyết định liên quan đến an ninh, trật tự, công cộng, cán bộ, công chức cũng như một số dạng hợp đồng được ban hành trong vùng để đảm bảo việc tuân thủ pháp luật.

 

Nhìn nhận về thực trạng QTĐP ở Việt Nam, tác giả cho rằng, nhiều văn bản pháp luật của nhiều cấp chính quyền địa phương được ban hành mâu thuẫn với nhiều văn bản pháp luật khác. Các quy định về chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền của các cấp chính quyền địa phương còn chung chung, chưa cụ thể, không có sự phân định rõ ràng và trùng lắp nên các địa phương lúng túng trong việc thực thi. Ngoài ra, trách nhiệm của người đứng đầu chưa được đề cao.

 

Trong lịch sử, Pháp đã có một thời kỳ rất dài đô hộ nước ta. Nền hành chính của Việt Nam chịu nhiều ảnh hưởng của nền hành chính Pháp, cấu trúc chính quyền địa phương ở hai nước có nhiều sự tương đồng. Từ những nghiên cứu trên, ThS. Nguyễn Thị Hưng đề xuất một số giải pháp có giá trị tham khảo cho việc kiện toàn mô hình QTĐP ở Việt Nam, đó là:

  • Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện phân cấp, phân quyền, ủy quyền mạnh mẽ, hợp lý giữa trung ương và địa phương;
  • Xây dựng chiến lược phát triển văn hóa quản trị của chính quyền địa phương gắn với việc thực hiện nghiêm túc trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương;
  • Quy định rõ hơn về chức năng, nhiệm vụ của từng cấp chính quyền địa phương;
  • Nâng cao vai trò của Hội đồng nhân dân các cấp;
  • Quy định cụ thể hơn về việc kiểm tra các văn bản quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền địa phương, có cơ chế để đảm bảo việc kiểm tra này có hiệu quả trên thực tế.

TS. Hoàng Kim Khuyên (giữa) trao đổi

 

Trao đổi trực tiếp tại tọa đàm, TS. Hoàng Kim Khuyên đề xuất, tác giả cần dẫn chứng cụ thể các chính sách, pháp luật của Pháp đã được thực hiện có hiệu quả để từ đó đề xuất ý kiến cho việc cần sửa đổi, bổ sung quy định nào trong pháp luật Việt Nam liên quan đến QTĐP. Tiếp theo, Đề tài nhận được ý kiến bằng hình thức trực tuyến của PGS.TS. Nguyễn Thị Việt Hương. Bà cho rằng, về mặt lý luận, Đề tài cần xác định rõ giữa hai khái niệm quản trị địa phương và tự quản địa phương. Dù hai mô hình này có nhiều điểm giao thoa nhưng tác giả cần nghiên cứu làm rõ dựa trên sự tham gia của người dân vào việc kiểm soát hoạt động của chính quyền và sự mình bạch của chính quyền.

 

Đề tài thứ hai thực hiện báo cáo kết quả nghiên cứu là Nghiên cứu so sánh các hình thức dân chủ trực tiếp ở Việt Nam và một số quốc gia trên thế giới của ThS. Mai Thị Minh Ngọc.

 

Kết cấu của Đề tài gồm 3 chương:

  • Nhận thức lý luận về các hình thức dân chủ trực tiếp (DCTT);
  • So sánh các hình thức DCTT ở Việt Nam và một số quốc gia trên thế giới;
  • Những điểm tương đồng và khác biệt, gợi mở cho Việt Nam về các hình thức DCTT.

DCTT là một trong hai hình thức chính của dân chủ. DCTT là hình thức nhân dân trực tiếp quyết định các luật lệ, các công việc quan trọng của quốc gia hay cộng đồng mà không cần thông qua một yếu tố trung gian nào. Từ những phân tích về nguồn gốc, bản chất và các quy định về DCTT ở một số quốc gia, tác giả cho rằng, DCTT được hiểu là sự thể hiện ý chí trực tiếp của người dân để quyết định các luật lệ, các công việc quan trọng của quốc gia hay cộng đồng mà không cần thông qua một yếu tố trung gian nào, cụ thể là cơ quan đại diện do nhân dân lập ra thông qua bầu cử. Sự thể hiện ý chí trực tiếp của người dân thông thường có ý nghĩa quyết định, bắt buộc phải được thi hành ngay mà không phụ thuộc vào mong muốn của chính quyền.

 

Nhìn chung, các quốc gia trên thế giới hiện đang áp dụng 04 hình thức DCTT, bao gồm: Trưng cầu ý dân; sáng kiến của công dân; sáng kiến chương trình nghị sự; bãi miễn. Với Việt Nam, Đề tài nhìn nhận, DCTT có các hình thức thực hiện cơ bản là bầu cử, bãi miễn đại biểu dân cử, trưng cầu ý dân và nhân dân tham gia quản lý nhà nước bằng các phương thức như thảo luận, đóng góp ý kiến xây dựng chính sách, pháp luật.

 

Việc xác định các yêu cầu đặt ra trong nghiên cứu so sánh các hình thức DCTT ở Việt Nam và một số quốc gia trên thế giới cần được xem xét dưới những góc độ thích hợp. Trong đó, dựa vào việc nghiên cứu các quy định của pháp luật về DCTT và hoạt động thực tiễn của Việt Nam và một số quốc gia trên thế giới, có thể đưa ra một số yêu cầu sau:

  • Quy định về các hình thức DCTT ở các quốc gia trên thế giới không phải đều giống nhau.
  • Hầu hết các quốc gia ghi nhận 4 hình thức DCTT (trưng cầu ý dân, sáng kiến của công dân, sáng kiến chương trình nghị sự và bãi miễn đại biểu dân cử). Việt Nam có quy định như thế nào, rộng hay hẹp hơn 4 hình thức DCTT trên?
  • So sánh thực tế triển khai thực hiện các hình thức DCTT ở một số quốc gia với Việt Nam. Những hình thức nào còn vướng mắc mà Việt Nam chưa thực hiện được?
  • Các hình thức DCTT ở một số quốc gia và Việt Nam được thực hiện ở những cấp nào?

TS. Phan Thanh Hà (bên trái) phát biểu

 

Từ đó, Đề tài đã luận giải, phân tích các hình thức DCTT ở một số nước như Thụy Sỹ, Mỹ và một số quốc gia ở Đông Nam Á để tìm hiểu về các yêu cầu trên. Thụy Sỹ được đánh giá là một quốc gia áp dụng hình thức DCTT phổ biến nhất. Hai hình thức chính của DCTT ở Thụy Sỹ là sáng kiến công dân và trưng cầu ý dân. Với hai trụ cột này, người dân đã tác động đáng kể đến toàn bộ hệ thống chính trị của đất nước. Bất cứ người dân nào cũng có thể đề xuất sáng kiến yêu cầu tiến hành một cuộc trưng cầu ý dân về việc sửa đổi toàn bộ hay một phần Hiến pháp theo mong muốn của mình. Điều kiện để sáng kiến này được đưa ra trưng cầu ý dân là phải thu thập được tối thiểu 100.000 chữ ký ủng hộ của cử tri trong thời hạn 18 tháng.

 

Ở Mỹ, mặc dù DCTT không được quy định trong Hiến pháp và áp dụng ở cấp liên bang, song ở đa số các bang, người dân có quyền đề xuất ban hành hoặc sửa đổi các đạo luật, được bỏ phiếu trong các cuộc trưng cầu ý dân về sửa đổi Hiến pháp của bang và ở một số bang, người dân còn có quyền bãi miễn các quan chức dân cử.

 

ThS. Mai Thị Minh Ngọc tiếp tục báo cáo khái quát các hình thức DCTT ở Việt Nam, chỉ ra những điểm tương đồng và khác biệt giữa nước ta và một số quốc gia khác. Chẳng hạn, về hình thức bầu cử, hầu hết các nước trên thế giới áp dụng 05 nguyên tắc: tự do (bắt buộc), phổ thông, bình đẳng, trực tiếp (gián tiếp) và bỏ phiếu kín; trong đó có cả nguyên tắc tự do, nguyên tắc bình đẳng. Ở Việt Nam, Hiến pháp năm 1946 ghi nhận 04 nguyên tắc, trong đó có nguyên tắc tự do nhưng không ghi nhận nguyên tắc bình đẳng, đến các Hiến pháp năm 1959, năm 1980, năm 1992, năm 2013 đều ghi nhận nguyên tắc bình đẳng nhưng lại không còn nguyên tắc tự do.

 

Qua nghiên cứu các hình thức DCTT được vận dụng ở một số quốc gia trên thế giới, Việt Nam có thể rút ra một số kinh nghiệm như: hoàn thiện khuôn khổ pháp luật về DCTT, hoàn thiện nguyên tắc bầu cử bình đẳng, hoàn thiện pháp luật về trưng cầu ý dân…

 

Thảo luận về Đề tài, TS. Phan Thanh Hà cho rằng, khi nói đến đặc điểm của DCTT ở Việt Nam thì không thể không nói đến hình thức khiếu nại, tố cáo và dân chủ cơ sở. Tọa đàm cũng nhận được ý kiến của PGS.TS. Nguyễn Thị Việt Hương. Bà gợi ý, tác giả cần làm rõ và luận giải vì sao một số quốc gia trên thế giới không coi bầu cử là hình thức DCTT. Với phần gợi mở cho Việt Nam, Đề tài cần chia theo các phương diện cụ thể để làm rõ, đó là: nhận thức; xây dựng các điều kiện; hoàn thiện pháp luật; tổ chức thực hiện. 

Các tin cùng chuyên mục: