•  
     
  •  
     
  •  
     
  •  
     
  •  
     
LIÊN KẾT WEBSITE

Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến pháp sửa đổi

08/01/2014
Chế định quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến pháp sửa đổi là chế định có nhiều điểm mới về nội dung và cách thức thể hiện. Bài viết đề cập cơ cấu của Chương II Quyền con người, quyền công dân; những điểm mới về cách thức ghi nhận quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; những điểm mới, những điểm sửa đổi, bổ sung về nội dung trong các quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; các quy định liên quan đến quyền con người, quyền công dân trong các chương khác của Hiến pháp sửa đổi nhằm tạo ra cơ chế hiến định bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Ngày 28/12/2013 Quốc hội đã thông qua Hiến pháp sửa đổi. Bản Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã có hiệu lực từ ngày 01/01/2014. Hiến pháp sửa đổi lần này có nhiều điểm mới về nội dung và cách thức thể hiện. Trong bài viết này, tôi phân tích những điểm mới, những điểm đã được sửa đổi, bổ sung trong chế định quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân của Hiến pháp sửa đổi.

 

1. Về cơ cấu của chương quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến pháp sửa đổi

Để thể chế hóa quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về nhân quyền, để thúc đẩy sự nghiệp bảo đảm, bảo vệ, thúc đẩy quyền con người ở Việt Nam cần xác định Hiến pháp là văn bản do chính nhân dân xây dựng nên để khẳng định mạnh mẽ chủ quyền nhân dân, ghi nhận và bảo vệ quyền con người, quyền công dân, tổ chức bộ máy quyền lực nhà nước một cách hợp lý nhằm ngăn ngừa sự lạm quyền, chuyên quyền để bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân.

 

Từ đây đặt ra yêu cầu sửa đổi toàn diện, cơ bản chương quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.

 

Việc xây dựng mô hình cơ cấu của Hiến pháp nói chung và của chương Quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân cần dựa vào các căn cứ sau đây: Thứ nhất, mục tiêu, sứ mạng của Hiến pháp; thứ hai, vị trí và tầm quan trọng của vấn đề quyền con người, quyền công dân; thứ ba, cam kết quốc tế của Việt Nam về tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người; thứ tư, cách thức ghi nhận quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp của các quốc gia trên thế giới; thứ năm, kinh nghiệm lập hiến của Việt Nam về quy định quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân.

 

Hiến pháp sửa đổi đã đưa ra một mô hình cơ cấu mới về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân như sau:

 

Chương Quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân là chương thứ hai trong Hiến pháp sau Chương I Chế độ chính trị. Điều này thể hiện quan điểm, nhận thức và quyết tâm của xã hội Việt Nam, Nhà nước và Nhân dân Việt Nam thực hiện cam kết tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ và thúc đẩy quyền con người.

 

Trong Chương II Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân các điều được sắp xếp theo thứ tự sau đây:

 

- Thứ nhất, các điều ghi nhận các nguyên tắc bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân ở nước ta, cụ thể là:

          + Khẳng định quan điểm, chính sách nhất quán công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân của Cộng hòa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; quy định về nguyên tắc hạn chế quyền con người, quyền công dân (Điều 14);

 

          + Xác lập các nguyên tắc ghi nhận và thực hiện quyền con người, quyền công dân (Điều 15, Điều 16);

 

          + Đưa ra định nghĩa công dân Việt Nam và trách nhiệm của Nhà nước bảo hộ công dân Việt Nam (Điều 17) ;

 

          + Ghi nhận vai trò của người Việt Nam định cư ở nước ngoài và chính sách khuyến khích và tạo điều kiện để người Việt Nam định cư ở nước ngoài giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam, giữ quan hệ gắn bó với gia đình và quê hương, góp phần xây dựng quê hương, đất nước (Điều 18).

 

- Thứ hai, các điều ghi các quyền về dân sự, chính trị, bao gồm: Quyền sống của con người (Điều 20; quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình; Quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình; quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác (Điều 21); Quyền có nơi ở của công dân và quyền quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở của mọi người (Điều 22); Quyền của công dân có quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước, có quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước (Điều 23); Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào;  các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật (Điều 24); Quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình (Điều 25); Quyền bình đẳng nam nữ, quyền bình đẳng giới (Điều 26); Quyền bầu cử và quyền ứng cử của công dân (Điều 27); Quyền của công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước (Điều 28); Quyền biểu quyết  của công dân khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân (Điều 29); Quyền khiếu nại, tố cáo của mọi người với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân (Điều 30); Quyền suy đoán vô tội và được xét xử công bằng; quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự (Điều 31).

 

- Thứ ba, các điều quy định về các quyền về kinh tế, xã hội và văn hóa: Quyền sở hữu của mọi người (Điều 32); Quyền tự do kinh doanh của mọi người (Điều 33); Quyền của mọi người được bảo đảm an sinh xã hội (Điều 34); Quyền làm việc, lựa chọn nghề nghiệp, việc làm và nơi làm việc quyền được bảo các điều kiện làm việc công bằng, an toàn; được hưởng lương, chế độ nghỉ ngơi (Điều 35); Quyền kết hôn, ly hôn (Điều 36); Quyền của trẻ em, của thanh niên, người cao tuổi (Điều 37); Quyền của mọi người được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe, bình đẳng trong việc sử dụng các dịch vụ y tế (Điều 38); Quyền học tập của công dân (Điều 39); Quyền của mọi người nghiên cứu khoa học và công nghệ, sáng tạo văn học, nghệ thuật và thụ hưởng lợi ích từ các hoạt động đó (Điều 40); Quyền của mọi người được hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hoá, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa (Điều 41); Quyền xác định dân tộc của mình, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp (Điều 42); Quyền của mọi người được sống trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ môi trường (Điều 43);

 

- Thứ tư, các điều quy định về nghĩa vụ: Nghĩa vụ trung thành với Tổ quốc của công dân (Điều 44); Nghĩa vụ của công dân về bảo vệ Tổ quốc; nghĩa vụ quân sự và tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân của công dân (Điều 45); Nghĩa vụ của công dân tuân theo Hiến pháp và pháp luật; tham gia bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội và chấp hành những quy tắc sinh hoạt công cộng (Điều 46); Nghĩa vụ của mọi người về nộp thuế (Điều 47).

 

Bên cạnh các nghĩa vụ được nêu ra trong các điều nói trên, trong chương II có có một số điều khác quy định về nghĩa vụ, đó là: Nghĩa vụ học tập của công dân (đồng thời cũng là quyền (Điều 39); Nghĩa vụ bảo vệ môi trường (đồng thời mọi người có quyền sống trong môi trường trong lành (Điều 43); Nghĩa vụ thực hiện các quy định về phòng bệnh, khám bệnh, chữa bệnh (đồng thời là quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe(Điều 38).

 

2. Những điểm mới về cách thức ghi nhận quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp sửa đổi

Hiến pháp sửa đổi có những điểm mới về cách thức ghi nhận quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.

 

Một là, chương quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được đặt trang trọng tại chương II sau chương I Chế độ chính trị.

 

Hai là, có sự đổi mới về cách thức ghi nhận quyền con người, quyền công dân. Để khắc phục cách thức quy định theo kiểu Nhà nước ban phát, Hiến pháp sửa đổi đã ghi nhận các quyền theo cách: Con người có quyền, công dân có quyền. Điều này có nghĩa là bản thân con người, công dân có các quyền này chứ không phải là sự ban phát, trao quyền của công quyền.

 

Trong một số điều, sau khi ghi nhận quyền của con người, quyền của công dân, có viết: Việc thực hiện quyền... theo quy định của luật/theo quy định của pháp luật, chứ không phải theo cách quy định của Hiến pháp năm 1992 là: Công dân có quyền theo quy định của pháp luật. Bởi lẽ, các quyền là của con người, của công dân. Hiến pháp công nhận, ghi nhận các quyền này. Để con người, công dân thực hiện tốt các quyền thì Nhà nước ban hành luật/pháp luật để tạo điều kiện thuận lợi  cho công dân, con người thực hiện các quyền, chứ không phải ban hành luật/pháp luật là để cản trở, tước đoạt quyền con người, quyền công dân.

 

Ba là, các quyền và các nghĩa vụ là của tất cả mọi người (trong đó, đương nhiên là có công dân), chỉ có một số quyền và nghĩa vụ là của riêng công dân Việt Nam. Vì vậy, Hiến pháp sửa đổi đã viết theo cách: Mọi người có quyền..., mọi người có nghĩa vụ... Một số quyền chỉ là quyền của công dân thì ghi: Công dân có quyền...; nghĩa vụ nào chỉ là của công dân Việt Nam thì ghi: Công dân có nghĩa vụ.

 

Bốn là, bỏ cách quy định: Quyền con người về chính trị, dân sự và kinh tế, văn hóa, xã hội được thể hiện trong quyền công dân như trong Điều 50 của Hiến pháp năm 1992 vì quyền con người có nội hàm rộng hơn quyền công dân, không nên “đánh đồng” quyền con người với quyền công dân. 

 

3. Về nội dung các quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản công dân trong  chương II của Hiến pháp sửa đổi

Về nội dung, chế định quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản công dân trong Hiến pháp sửa đổi có nhiều điểm mới, có nhiều sửa đổi, bổ sung:  

 

Thứ nhất, Hiến pháp sửa đổi ghi nhận nguyên tắc hạn chế quyền con người, quyền công dân. Điều 14 (khoản 2) đưa ra nguyên tắc: Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.

 

Như vậy, quyền con người, quyền công dân là những quyền mà con người, công dân có toàn quyền định đoạt. Đây là những quyền không thể bị tước đoạt. Chúng chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật (chứ không phải là văn bản dưới luật) trong những trường hợp đặc biệt như quy định tại khoản 2 Điều 14 Hiến pháp sửa đổi.

 

Việc hạn chế việc thực hiện quyền con người chính là điều kiện để bảo đảm tính hiện thực của các quyền con người, quyền công dân. Nó bảo đảm sự cân bằng giữa các lợi ích trong mối quan hệ Nhà nước- Con người, Công dân, Cá nhân; bảo đảm sự minh bạch và lành mạnh của các mối quan hệ này.

 

Thứ hai, Hiến pháp sửa đổi khẳng định rõ hơn các nguyên tắc ghi nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân ở Việt Nam. Đó là các nguyên tắc được ghi nhận tại Điều 15 và Điều 16: Quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân; Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác; Công dân có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội; Việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác;  Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật; Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội.

 

Thứ ba, Hiến pháp sửa đổi đã bổ sung một số quyền mới của con người, của công dân. Đó là các quyền:

- Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật (Điều 19). Quyền sống là quyền cơ bản của con người được ghi nhận trong Điều 3 Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người, trong Điều 6 Công ước quốc tế về các queyenf dân sự, chính trị năm 1966. Theo các điều ước quốc tế, con người không bị tước đoạt quyền sống một cách tùy tiện, trái pháp luật. Cho đến khi chưa bị bãi bỏ thì hình phạt tử hình chỉ được tuyên đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng được quy định trong Bộ luật Hình sự. Không áp dụng hình phạt tử hình đối với người chưa thành niên, phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con nhỏ.   

 

- Công dân có quyền được bảo đảm an sinh xã hội (Điều 34). Trước đây trong Hiến pháp năm 1992 mới chỉ nói đến vấn đề bảo hiểm xã hội. Công dân cần được bảo đảm bởi một lưới an sinh xã hội ngày càng đầy đủ và có độ bao phủ rộng. Trong điều kiện kinh tế thị trường ở một đất nước trải qua nhiều cuộc chiên tránh và biến đổi khí hậu có hàng loạt vấn đề xã hội phát sinh. Công dân có nguy cơ không được bảo đảm về cuộc sống, về việc làm. Cần khẳng định được bảo đảm an sinh xã hội để khẳng định trách nhiệm của Nhà nước, của xã hội trong việc chăm lo giải quyết các vấn đề xã hội, bảo đảm sự hài hòa của xã hội, bảo đảm công bằng xã hội.   

 

- Mọi người có quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hoá, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa (Điều 41). Nhu cầu hưởng thụ, tiếp cận các giá trị văn hóa và tham gia vào đời sống văn hóa là nhu cầu không thể thiếu của con người. Xã hội càng phát triển nhu cầu này ngày càng cao. 

 

- Công dân có quyền xác định dân tộc của mình, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp (Điều 42). Ở một quốc gia đa dân tộc như nước ta cần khẳng định quyền này của người dân. Đây cũng là yếu tố bảo đảm sự bình đẳng giữa các dân tộc.  

 

- Mọi người có quyền được sống trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ môi trường (Điều 43). Hiện nay, tình trạng ô nhiễm môi trường ngày càng trở nên trầm trọng. Ô nhiễm môi trường, suy thoái môi trường ảnh hưởng tiêu cực đến sự sống, sức khỏe, cuộc sống của mọi người và sự phát triển bền vững của quốc gia. Cần khẳng định quyền sống trong môi trường trong lành của con người để tạo ra cơ sở hiến định xác lập nghĩa vụ, trách nhiệm của mọi chủ thể trong xã hội phải bảo vệ môi trường vì lợi ích của thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau.  

 

Việc ghi nhận các quyền mới nói trên là hoàn toàn phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia; thể hiện sự nhận thức ngày càng rõ hơn của chúng ta về vấn đề quyền con người và khẳng định cam kết mạnh mẽ của Việt Nam về thực hiện quyền con người. Đồng thời nó cũng phù hợp với xu thế mới của thế giới trong việc ghi nhận trong Hiến pháp các quyền con người.

 

Thứ tư, Hiến pháp sửa đổi đã sửa đổi, bổ sung nội dung nhiều điều quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến pháp năm 1992. Cụ thể là:

 

Điều 14: So với Điều 50 Hiến pháp năm 1992, Điều 14 của Hiến pháp sửa đổi đã không viết theo công thức quyền con người thể hiện trong quyền công dân nữa. Điều 14 đã khắc phục được điểm yếu của Điều 50 Hiến pháp năm 1992 khi quy “quyền con người” một khái niệm rộng lớn hơn vào khái niệm “quyền công dân”.

 

Điều 15 sửa đổi Điều 51 và Điều 52 Hiến pháp năm 1992 bằng cách: Mở rộng chủ thể có quyền bình đẳng, không bị phân biệt đối xử về mọi mặt thành quyền của mọi người; nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác thành nghĩa vụ của mọi người; chuyển các quy định về trách nhiệm bảo đảm quyền con người, quyền công dân sang các chương khác của Hiến pháp (Chương I, Chương II và các chương khác).

 

Điều 17 sửa đổi, bổ sung Điều 49 Hiến pháp năm 1992 theo hướng khẳng định trách nhiệm của Nhà nước trước công dân của mình:  Công dân Việt Nam không thể bị trục xuất, giao nộp cho nhà nước khác; Công dân Việt Nam ở nước ngoài được Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo hộ.

 

Điều 18 sửa đổi, bổ sung Điều 75 Hiến pháp năm 1992:  Ghi nhận, tôn vinh người Việt Nam định cư ở nước ngoài, nêu rõ chính sách của Nhà nước Việt Nam: Người Việt Nam định cư ở nước ngoài là bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam; Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khuyến khích và tạo điều kiện để người Việt Nam định cư ở nước ngoài giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam, giữ quan hệ gắn bó với gia đình và quê hương, góp phần xây dựng quê hương, đất nước.

 

Điều 20 sửa đổi, bổ sung Điều 71 Hiến pháp năm 1992:  Khẳng định mọi người đều được hưởng quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm. Tháng 12/2013 Việt Nam đã chính thức gia nhập Công ước về Chống tra tấn là thể hiện quyết tâm của Việt Nam bảo đảm cho mọi người được hưởng quyền bất khả về thân thể. 

 

Ngày nay việc hiến mô, các bộ phận cơ thể người, hiến xác, việc thử nghiệm y học, dược học, khoa học hay bất kỳ hình thức thử nghiệm nào khác trên cơ thể người càng ngày càng trở nên phổ biến. Đây là những công việc nhân đạo. Điều 20 khẳng định hiến mô, các bộ phận cơ thể người, hiến xác là quyền của con người. Việc thực hiện quyền này theo quy định của luật. Mọi việc thử nghiệm y học, dược học, khoa học hay bất kỳ hình thức thử nghiệm nàokhác trên cơ thể người phải có sự đồng ý của người được thử nghiệm.

 

Điều 21 sửa đổi, bổ sung Điều 73 Hiến pháp năm 1992: Khẳng định quyền bất khả quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình; thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình được pháp luật bảo đảm an toàn chứ không chỉ là quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác. Không ai được bóc mở, kiểm soát, thu giữ trái luật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư của người khác. Đây cũng là các quyền của tất cả mọi người.

 

Điều 22 sửa đổi, bổ sung Điều 62, Điều 73 Hiến pháp năm 1992: Bóc tách riêng quyền có nơi ở;  ghi nhận công dân có quyền có nơi ở hợp pháp; mọi người có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở; không ai được tự ý vào chỗ ở của người khác nếu không được người đó đồng ý; việc khám xét chỗ ở do luật định.

 

Điều 23 sửa đổi, bổ sung Điều 68: Ghi nhận công dân có quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước, có quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định.

 

Điều 24 sửa đổi Điều 70 Hiến pháp năm 1992: Khẳng định mọi người đều có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào; các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. Điều 24 (khoản 2) đưa ra cam kết: Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật. So với quy định của khoản 3 Điều 70 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật” có tính minh định hơn thay cho cách quy định khá mập mờ: “Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước”. 

 

Điều 25 sửa đổi Điều 69 Hiến pháp năm 1992 theo hướng khẳng định rõ: Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Đây là các quyền không thể tước đoạt của công dân. Mặt khác, để công dân có hành lang pháp lý để thực hiện các quyền này thì Nhà nước cần ban hành các văn bản pháp luật cần thiết. Chính vì vậy mà Hiến pháp sửa đổi quy đinh: Việc thực hiện các quyền này (quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình) do pháp luật quy định.

 

Điều 26 sửa đổi, bổ sung Điều 63 Hiến pháp năm 1992: Tiếp tục khẳng định công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt; ghi nhận nguyên tắc bình đẳng giới, không phân biệt đối xử về giới, nghiêm cấm phân biệt đối xử về; đồng thời khẳng định cam kết của Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã hội.

 

Điều 27 sửa đổi Điều 54 Hiến pháp năm 1992: Ghi nhận công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân; khẳng định việc thực hiện quyền bầu cử, ứng cử do luật định.

 

Điều 28 sửa đổi, bổ sung Điều 5 Hiến pháp năm 1992theo hướng ghi nhận đầy đủ hơn quyền tham gia quyền lý nhà nước và xã hội của công dân: Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước.

 

Tại Điều này có một bổ sung mới, đó là ghi nhận cam kết của Nhà nước trong việc bảo đảm quyền tham gia quyền lý nhà nước và xã hội của công dân: Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội;bảo đảm tính công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân.

 

Điều 29 sửa đổi, bổ sung quy định của Điều 53 Hiến pháp năm 1992: Tách quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân thành một điều riêng để khẳng định tầm quan trọng của quyền này. Đây cũng là biểu hiện của việc coi trọng hình thức dân chủ trực tiếp của Nhân dân. Điều 29 ghi nhận độ tuổi được quyền tham gia biểu quyết: Công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân.

 

Điều 30 sửa đổi, bổ sung Điều 74 Hiến pháp năm 1992 ở hai điểm quan trọng: 1. Khẳng định quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân là quyền của tất cả mọi người; 2. Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo.

 

Điều 31 sửa đổi, bổ sung Điều 7 Hiến pháp năm 1992: Khẳng định rõ nguyên tắc suy đoán vô tội:  Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Điều 31 ghi nhận rõ quyền và nguyên tắc người bị buộc tội được xét xử công bằng của con người: Người bị buộc tội phải được Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn luật định, công bằng, công khai. Trường hợp xét xử kín theo quy định của luật thì việc tuyên án phải được công khai. 

 

Điều 32  sửa đổi, bổ sung Điều 58 (và cả Điều 23) Hiến pháp năm 1992 theo hướng: Khẳng định quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác là của mọi người.

 

Điều 32 tiếp tục khẳng định: Quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ.

 

Riêng quyền sử dụng đất thì được quy định tại chương III (Điều 54): Tổ chức, cá nhân được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất. Người sử dụng đất được chuyển quyền sử dụng đất, thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định của luật. Quyền sử dụng đất được pháp luật bảo hộ. Nhà nước thu hồi đất do tổ chức, cá nhân đang sử dụng trong trường hợp thật cần thiết do luật định vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng. Việc thu hồi đất phải công khai, minh bạch và được bồi thường theo quy định của pháp luật.

 

Đưa quy định về trưng mua, trưng dụng từ quy định của Chương III của Hiến pháp năm 1992 về chế độ kinh tế sang chương quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân: Trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, tình trạng khẩn cấp, phòng chống thiên tai, Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của tổ chức, cá nhân theo giá thị trường.

 

Điều 33 sửa đổi Điều 57 Hiến pháp năm 1992: Ghi nhận mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm (chứ không chỉ là quyền của công dân Việt Nam).

 

Điều 35 sửa đổi, bổ sung Điều 55, Điều 56 Hiến pháp năm 1992: Khẳng định quyền làm việc của công dân theo nghĩa đầy đủ của nó, đó là quyền làm việc, lựa chọn nghề nghiệp, việc làm và nơi làm việc. Đó là quyền của người làm công ăn lương được bảo đảm các điều kiện làm việc công bằng, an toàn; được hưởng lương, chế độ nghỉ ngơi.  Điều 35 nghiêm cấm phân biệt đối xử, cưỡng bức lao động, sử dụng nhân công dưới độ tuổi lao động tối thiểu. 

 

Điều 36 sửa đổi, bổ sung Điều 64 Hiến pháp năm 1992 theo hướng quy định ngắn gọn hơn, thể hiện tính pháp lý rõ hơn của quyền kết hôn, ly hôn; các nguyên tắc của hôn nhân và cam kết của Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình, bảo hộ quyền lợi của người mẹ và trẻ em: “Nam, nữ có quyền kết hôn, ly hôn. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau. Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình, bảo hộ quyền lợi của người mẹ và trẻ em”.

 

Điều 37 sửa đổi Điều 65, Điều 66 Hiến pháp năm 1992: Khẳng định quyền của trẻ em được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; được tham gia vào các vấn đề về/của trẻ em;  nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em.

 

Tại điều này cũng ghi nhận quyền của thanh niên được Nhà nước, gia đình và xã hội tạo điều kiện học tập, lao động, giải trí, phát triển thể lực, trí tuệ, bồi dưỡng đạo đức, truyền thống dân tộc, ý thức công dân; đi đầu trong công cuộc lao động sáng tạo và bảo vệ Tổ quốc.

 

Điều 37 khẳng định sự tôn vinh và quyền của người cao tuổi: Người cao tuổi được Nhà nước, gia đình và xã hội tôn trọng, chăm sóc và phát huy vai trò trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

 

Điều 38 sửa đổi, bổ sung Điều 39, Điều 61 Hiến pháp năm 1992:  Khẳng định mọi người có quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe, bình đẳng trong việc sử dụng các dịch vụ y tế và có nghĩa vụ thực hiện các quy định về phòng bệnh, khám bệnh, chữa bệnh; nghiêm cấm các hành vi đe dọa cuộc sống, sức khỏe của người khác và cộng đồng.

 

Các vấn đề về chính sách y tế để bảo đảm quyền được bảo vệ chăm sóc sức khỏe được chuyển sang chương III của Hiến pháp sửa đổi.

 

Điều 39 sửa đổi Điều 59 Hiến pháp năm 1992: Ghi nhận quyền học tập (đồng thời là nghĩa vụ) của công dân. Các vấn đề về đường lối, chính sách giáo dục được đưa sang chương III Hiến pháp sửa đổi.

 

Điều 40 sửa đổi, bổ sung Điều 60 Hiến pháp năm 1992 theo hướng khẳng định mọi người có quyền nghiên cứu khoa học và công nghệ, sáng tạo văn học, nghệ thuật và thụ hưởng lợi ích từ các hoạt động đó.

 

Về các nghĩa vụ, về cơ bản Hiến pháp sửa đổi giữ nguyên như quy định của Hiến pháp năm 1992: Công dân có nghĩa vụ trung thành với Tổ quốc (Điều 44); nghĩa vụ quân sự của công dân (Điều 45); Công dân có nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp và pháp luật; tham gia bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội và chấp hành những quy tắc sinh hoạt công cộng (Điều 46).

 

Riêng nghĩa vụ nộp thuế được sửa đổi về chủ thể: Mọi người có nghĩa vụ nộp thuế theo luật định (chứ không chỉ là công dân Việt Nam).

 

Bên cạnh các nghĩa vụ được nêu ra trong các điều nói trên, như tôi đã trình bày ở phần trên, trong chương II có có một số điều khác nói về nghĩa vụ, đó là: Nghĩa vụ học tập của công dân (đồng thời cũng là quyền (Điều 39); Nghĩa vụ bảo vệ môi trường của mọi người (đồng thời mọi người có quyền sống trong môi trường trong lành (Điều 43 ); Nghĩa vụ thực hiện các quy định về phòng bệnh, khám bệnh, chữa bệnh (đồng thời là quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe (Điều 38).

 

4. Đưa các nội dung liên quan đến quyền con người, quyền công dân vào nhiều chương khác của Hiến pháp nhằm tạo ra cơ chế hiến định bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân

Hiến pháp sửa đổi khẳng định nguyên tắc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước ở nước ta: Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp (khoản 3 Điều 2). Việc hiến định việc kiểm soát quyền lực, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp chính là tạo ra cơ chế ngăn ngừa chuyên quyền, lộng quyền, lạm quyền, quan liêu, tham nhũng trong quá quá trình thực hiện quyền lực. Quyền con người, quyền công dân chỉ được bảo đảm, bảo vệ có hiệu quả khi ngăn ngừa, kiểm soát được chuyên quyền, lộng quyền, lạm quyền, quan liêu, tham nhũng.

 

Tại Điều 3 trong chương I Chế độ chính trị đã ghi nhận quan điểm, chính sách của Nhà nước Việt Nam là công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người. Từ đây đặt ra nghĩa vụ của tất cả mọi chủ thể ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đều phải công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người.

 

Công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người là trách nhiệm, nghĩa vụ của tất cả các cơ quan nhà nước, công chức, viên chức nhà nước và các tổ chức chính trị- xã hội, tổ chức xã hội, xã hội- nghề nghiệp.

 

Các quy định tại chương III của Hiến pháp sửa đổi về chính sách phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường có vai trò rất quan trọng đối với thực hiện quyền con người, quyền công dân. Đây chính là điều kiện để bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền công dân. Chẳng hạn, khoản 3 Điều 51 quy định về chính sách khuyến khích, tạo điều kiện để doanh nhân, doanh nghiệp và cá nhân, tổ chức khác đầu tư, sản xuất, kinh doanh; phát triển bền vững các ngành kinh tế, góp phần xây dựng đất nước; tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ chức đầu tư, sản xuất, kinh doanh được pháp luật bảo hộ và không bị quốc hữu hóa. Chính sách này của Nhà nước là những bảo đảm kinh tế- pháp lý cho các quyền kinh doanh, quyền tài sản của con mọi người.

 

Để bảo đảm quyền được bảo vệ và chăm sóc sức khỏe của công dân, Hiến pháp sửa đổi đề ra quan điểm, chính sách: Nhà nước, xã hội đầu tư phát triển sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của Nhân dân, thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân, có chính sách ưu tiên chăm sóc sức khoẻ cho đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào ở miền núi, hải đảo và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn (Điều 58).

 

Quốc hội với chức năng thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước (Điều 69) có vai trò quan trọng trong việc thông qua các đạo luật về quyền con người, quyền công dân,  giám sát thực hiện quyền con người, quyền công dân, quyết định các chương trình kinh tế- xã hội lớn bảo đảm quyền con người quyền công dân. Quốc hội là cơ quan có thẩm quyền quyết định việc phê chuẩn, gia nhập các điều ước quốc tế về quyền con người (khoản 14 Điều 70).

 

Một trong những nhiệm vụ, quyền hạn quan trọng của Chính phủ là bảo vệ quyền con người, quyền công dân (khoản 6 Điều 96). Bảo vệ quyền con người, quyền công dân được khẳng định là nhiệm vụ của Tòa án nhân dân (khoản 3, Điều 102). Bảo vệ quyền con người, quyền công dân cũng được quy định là nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân (khoản 3, Điều 107).

 

Có thể nói, lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến nước ta, Hiến pháp trực tiếp quy định nhiệm vụ của Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân về bảo vệ quyền con người, quyền công dân- một nhiệm vụ hiến định. Từ đây, xã hội, nhân dân, mọi người có quyền đặt ra yêu cầu ngày càng cao hơn đối với Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân trong việc thực hiện nhiệm vụ hiến định về bảo vệ quyền con người, quyền công dân.

 

Hiến pháp sửa đổi dự liệu việc xây dựng cơ chế bảo vệ Hiến pháp ở Việt Nam: Cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật định (khoản 2 Điều 119). Cơ chế bảo vệ Hiến pháp cũng chính là cơ chế bảo vệ quyền con người vì Hiến pháp là văn bản tôn vinh con người, công nhận, bảo đảm, bảo vệ và thúc đẩy quyền con người ở nước ta. Một cơ chế bảo hiến hiện đại, phù hợp với nguyện vọng nhân dân phải là cơ chế bảo vệ quyền con người đã được long trọng công nhận trong Hiến pháp.

 

*               *

*

 

Chế định Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến pháp sửa đổi là chế định có nhiều điểm mới về cơ cấu, cách viết và về nội dung. Bài viết này mới đưa ra những nét chấm phá còn rất sơ lược.

 

Để tạo ra cơ chế hiến định vững chắc bảo đảm, bảo vệ và thúc đẩy quyền con người còn có quy định nhiều khác của Hiến pháp, từ quy định của Lời nói đầu cho đến quy định của các chương khác của Hiến pháp liên quan đến quyền con người, quyền công dân.

 

Sắp tới đây các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, các tổ chức cần: 1. Tuyên truyền, phổ biến sâu rộng các quy định của Hiến pháp sửa đổi về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; 2. Rà soát các văn bản hiện hành từ góc độ phù hợp với các quy định của Hiến pháp về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân để để xuất những sửa đổi, bổ sung cần thiết;  3. Sớm soạn thảo và ban hành các đạo luật về hội, về tự do ngôn luận, về biểu tình, về báo chí, về tiếp cận thông tin, về trưng cầu ý dân… để tạo hành lang pháp lý cho con người, công dân thực hiện ngày càng tốt hơn, đầy đủ hơn các quyền của mình.  

 

PGS.TS. Phạm Hữu Nghị

Tổng biên tập Tạp chí Nhà nước và Pháp luật