•  
     
  •  
     
  •  
     
  •  
     
  •  
     
LIÊN KẾT WEBSITE

Hội thảo “Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại bằng tòa án trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư: Thực trạng và hướng hoàn thiện”

22/04/2024
Ngày 16/04/2024, Ban chủ nhiệm Đề tài cấp Bộ “Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại bằng phương thức tòa án ở Việt Nam trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư” đã tổ chức hội thảo tại trụ sở Viện Nhà nước và Pháp luật, 27 Trần Xuân Soạn, Hà Nội. Chủ trì hội thảo là PGS.TS. Dương Quỳnh Hoa, Chủ nhiệm đề tài.

PGS.TS. Dương Quỳnh Hoa phát biểu đề dẫn hội thảo

 

Tham gia hội thảo có các chuyên gia, thành viên đề tài và các nhà nghiên cứu của Viện Nhà nước và Pháp luật.

 

Phát biểu đề dẫn hội thảo, PGS.TS. Dương Quỳnh Hoa cho rằng, ngày nay, sự bùng nổ của công nghệ làm “xóa nhòa ranh giới giữa các không gian vật lý, không gian số và không gian sinh học”. Dưới tác động của công nghệ, Cách mạng công nghiệp (CMCN) 4.0 đã và đang làm thay đổi cả không gian và thời gian trong các quan hệ xã hội, làm biến đổi các yếu tố có tính “truyền thống” trong tranh chấp và giải quyết tranh chấp. Một cá nhân ở quốc gia này hoàn toàn có thể kết nối, xác lập và thực hiện các giao dịch với một cá nhân ở quốc gia khác mà không bị tác động bởi yếu tố lãnh thổ quốc gia. Tuy nhiên, mỗi cá nhân trong mối quan hệ này vẫn phải chịu sự điều chỉnh của pháp luật tại quốc gia mình. Vì thế, việc xuất hiện các dạng tranh chấp mới trên môi trường số, đặc biệt là tranh chấp xuyên quốc gia, xuyên biên giới chưa từng xảy ra trước đây làm phát sinh nhu cầu điều chỉnh pháp luật mới mà hệ thống pháp luật truyền thống chưa dự liệu hết được.

 

Nhiều quy định pháp luật hiện hành của Việt Nam không thật sự tương thích với những gì mà cuộc CMCN 4.0 có thể mang lại cho con người. Các tòa án Việt Nam còn đang rất lúng túng trong áp dụng pháp luật đặc biệt đối với những tranh chấp kinh doanh, thương mại xuyên biên giới. Trong bối cảnh đó, Ban chủ nhiệm đề tài tổ chức hội thảo này nhằm đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại bằng tòa án trong bối cảnh CMCN lần thứ tư, chỉ ra những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của nó để từ đó làm cơ sở cho việc đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật.

 

TS. Hà Công Anh Bảo trình bày tham luận

 

Tham luận mở đầu hội thảo do TS. Hà Công Anh Bảo (Khoa Luật, Trường Đại học Ngoại thương) trình bày có chủ đề “Tranh chấp kinh doanh, thương mại và các phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại dưới tác động của cuộc CMCN lần thứ tư”. Theo tác giả, những thay đổi chính về tranh chấp kinh doanh, thương mại ở thời kỳ này đó là: sở hữu trí tuệ, sự thay đổi trong mô hình kinh doanh, tăng cường sự cạnh tranh, sự biến đổi trong chuỗi cung ứng, thách thức về bảo vệ dữ liệu, tranh chấp xuyên biên giới gia tăng… Cùng với đó là việc áp dụng ngày càng nhiều hình thức trực tuyến trong các phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại dưới tác động của CMCN 4.0: thương lượng, hòa giải, trọng tài, tòa án.

 

TS. Hà Công Anh Bảo cho rằng, sự tác động của cuộc CMCN 4.0 đến các phương thức giải quyết tranh chấp nằm ở các vấn đề sau:

  • Tăng cường sự tương tác và chủ động trong giải quyết tranh chấp: Các nền tảng trực tuyến và sự hiện diện của doanh nghiệp tạo ra một môi trường linh hoạt và tiện lợi, nơi mà các vấn đề có thể được giải quyết thông qua các hệ thống trao đổi thông tin và phản hồi.
  • Tăng tính trung thực và minh bạch trong quá trình giải quyết tranh chấp, giúp tăng cường niềm tin giữa các bên liên quan.
  • Thách thức về quyền riêng tư và bảo mật: Mặc dù có nhiều lợi ích, việc sử dụng công nghệ trong giải quyết tranh chấp cũng đặt ra các thách thức về quyền riêng tư và bảo mật thông tin, yêu cầu các biện pháp bảo vệ dữ liệu và thông tin cá nhân.
  • Pháp lý và chính sách mới: Sự phát triển của CMCN 4.0 đang thúc đẩy sự cần thiết phải có các chính sách và quy định pháp luật mới để điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp trong môi trường số.

Trong đó, chính sách, pháp luật cần phải có quy định cụ thể và rõ ràng cho hình thức giải quyết tranh chấp trực tuyến bao gồm quy trình, quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia, cũng như việc xác định rõ trách nhiệm của các bên thực hiện quy trình này. Trong thời gian tới, Việt Nam cũng cần sớm ban hành các quy định pháp luật về trí tuệ nhân tạo (AI) và ứng dụng AI trong giải quyết tranh chấp cũng như chú trọng vào việc bảo mật và quyền riêng tư.

 

TS. Trần Văn Biên báo cáo kết quả nghiên cứu tham luận của mình

 

Tiếp theo là tham luận “Thẩm quyền và hình thức giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại bằng tòa án dưới tác động của CMCN 4.0” của TS. Trần Văn Biên (Tổng Biên tập Tạp chí Nhà nước và Pháp luật). Trong bối cảnh của CMCN lần thứ tư, việc xác định thầm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại gặp phải nhiều thách thức. Thương mại điện tử được thực hiện qua phương tiện điện tử có kết nối mạng không như các bên thường gặp gỡ trực tiếp để thực hiện giao dịch trong thương mại truyền thống. Các bên có thể không biết nhau và chỉ thực hiện giao dịch thông qua các website, ứng dụng thương mại điện tử. Việc ẩn danh tính khiến cho việc truy tìm và xác định thông tin gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, thị trường trong thương mại điện tử là thị trường xuyên biên giới, các giao dịch diễn ra trên toàn cầu. Hiện nay, cũng không có cơ chế hay hệ thống pháp luật chung giữa các quốc gia để xác định chính xác thẩm quyền giải quyết tranh chấp thuộc về cơ quan tài phán nào.

 

Theo tác giả, CMCN lần thứ tư đang tác động sâu sắc, nhiều chiều đến đời sống kinh tế - xã hội, đời sống pháp lý, trong đó có hình thức giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại. Bên cạnh việc làm gia tăng về số lượng và mức độ phức tạp của tranh chấp, CMCN lần thứ tư còn làm phát sinh một số loại tranh chấp mới, chẳng hạn như: các tranh chấp về tài sản mã hóa, tiền mã hóa; tranh chấp phát sinh từ giao dịch số, hợp đồng thông minh; tranh chấp liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ đối với sản phẩm công nghệ… So với các tranh chấp truyền thống, các tranh chấp này mang nhiều đặc thù, đòi hỏi phải có cơ chế giải quyết phù hợp, vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải nhanh chóng để đáp ứng với tốc độ phát triển nhanh chóng của công nghệ. Muốn vậy, các chủ thể giải quyết tranh chấp, ngoài việc am hiểu pháp luật còn phải hiểu được bản chất, cách thức vận hành công nghệ cốt lõi để áp dụng pháp luật phù hợp.

 

CMCN lần thứ tư làm thay đổi đối tượng tranh chấp, quan hệ pháp luật trong tranh chấp. Ví dụ, thời gian qua có nhiều tranh cãi xung quanh định nghĩa về tài sản trong Bộ luật Dân sự có bao hàm cả tài sản mã hóa (crypto asset) hay không, dẫn đến một số vướng mắc pháp lý phát sinh trên thực tế như việc Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre hủy các quyết định về truy thu thuế thu nhập cá nhân và thuế giá trị gia tăng của một cá nhân kinh doanh tiền mã hóa với lý do chưa có quy định pháp luật công nhận tiền mã hóa là hàng hóa.

 

TS. Nguyễn Bích Thảo cùng PGS.TS. Phạm Hữu Nghị (bên phải) và TS. Ngô Thanh Hương (bên trái)

 

Hội thảo tiếp tục lắng nghe TS. Nguyễn Bích Thảo (Khoa Luật Dân sự, Trường Đại học Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội) báo cáo kết quả nghiên cứu của tham luận “Nguyên tắc, trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại bằng tòa án dưới tác động của cuộc CMCN 4.0”. Bàn về nguyên tắc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại giữa doanh nghiệp với nhau (B2B) bằng tòa án, bài viết nhấn mạnh các chủ thể là doanh nghiệp đặc biệt quan tâm đến tính hiệu quả và ít chi phí. Bên cạnh việc tuân thủ các nguyên tắc truyền thống của tố tụng dân sự thì các nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng tòa án phải được điều chỉnh, bổ sung thêm các nguyên tắc khác của tố tụng điện tử mà TS. Trần Văn Biên kỳ vọng cần sửa đổi cơ bản Bộ luật Tố tụng dân sự đó là: thừa nhận tính hiệu lực của tố tụng điện tử; bảo mật thông tin và dữ liệu; đảm bảo tính hiệu quả, đơn giản và thân thiện với người dùng… Hiện nay, trong tố tụng dân sự đã quy định những vụ án liên quan đến bảo mật thông tin, bí mật đời tư, bí mật kinh doanh thì tòa án sẽ không xét xử công khai nhưng trong bối cảnh phát triển công nghệ thì vấn đề này cần được chú trọng, quan tâm nhiều hơn nữa.

 

Trên thực tế, từ khi có Nghị quyết số 33/2021/QH15 ngày 12/11/2021 của Quốc hội về tổ chức phiên tòa trực tuyến, theo thống kê đến tháng 12/2023, tất cả ngành tòa án có hơn 13.000 vụ xét xử trực tuyến, trong đó lĩnh vực lao động, thương mại, dịch vụ mới chỉ có 27 vụ, còn lại hơn 90% là vụ án hình sự. Đây là một nghịch lý, khác biệt lớn so với thế giới bởi lẽ ở phần lớn các quốc gia khác thì việc xét xử trực tuyến chủ yếu tập trung vào các tranh chấp dân sự, kinh doanh, thương mại. Trong khi, ở Việt Nam, hằng năm số lượng vụ án dân sự theo nghĩa rộng bao gồm cả kinh doanh, thương mại chiếm khoảng hơn 80% tổng số các vụ án mà Tòa án thụ lý lại không được xét xử trực tuyến. Qua nghiên cứu, TS. Nguyễn Bich Thảo cho rằng, nguyên nhân của tình trạng này là các quy định trong Nghị quyết số 33/2021/QH15 và Thông tư liên tịch 05/2021 ngày 15/12/2021 còn rất nhiều hạn chế, chẳng hạn như yêu cầu các điểm cầu trung tâm và thành phần phải đáp ứng đầy đủ tiêu chuẩn kỹ thuật, có người tiến hành tố tụng để giám sát nhằm đảm bảo tính tôn nghiệm, trật tự của phiên tòa dẫn đến việc phải tăng chi phí, nguồn lực cũng như gây rườm rà, phức tạp. Trên thực tế, có những tòa án cấp huyện phải mượn phòng của tòa án tỉnh để đủ điều kiện tổ chức phiên tòa trực tuyến. Trong khi đó, phiên tòa trực tuyến ở nhiều quốc gia khác được tổ chức linh hoạt với đương sự được ngồi ở bất cứ đâu và diễn ra trên nền tảng họp trực tuyến Zoom.

 

Toàn cảnh hội thảo

 

Từ những phân tích trên, tác giả gợi mở một số phương hướng, giải pháp:

  • Đáp ứng được mục tiêu và kỳ vọng của các bên tranh chấp là các thương nhân với nhau, đó là xét xử nhanh chóng, hiệu quả, chuyên nghiệp, chất lượng chuyên môn của phán quyết;
  • Tận dụng tối đa lợi thế của công nghệ số để hiện đại hóa và đơn giản hóa quy trình tố tụng;
  • Hội nhập quốc tế về hiện đại hóa hệ thóng tư pháp, trong đó có hệ thống giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại bằng tòa án;
  • Tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế nhưng phải phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, trình độ khoa học công nghệ của Việt Nam.

Nhìn nhận về số lượng vụ án hình sự được xét xử trực tuyến cao hơn rất nhiều so với vụ án dân sự, kinh doanh, thương mại, theo PGS.TS. Phạm Hữu Nghị, ngoài những nguyên nhân mà TS. Nguyễn Bích Thảo đã nêu thì còn một nguyên nhân cơ bản nữa là do nhận thức của con người, với các yếu tố về nhận thức xã hội, tâm lý con người cũng như yếu tố liên quan đến tham nhũng trong tố tụng dân sự.

 

Bình luận tại hội thảo, TS. Phạm Thị Hương Lan cho rằng, trong các vụ án dân sự phức tạp thì khâu khó khăn nhất là nộp đơn, thụ lý vụ án. Hiện nay, ngoài nộp đơn trực tiếp thì người dân có thể nộp đơn bằng con đường điện tử nhưng hình thức này còn chưa phổ biến bởi lẽ đơn có rất nhiều loại tùy theo vụ liên quan đến lĩnh vực hành chính, kinh doanh, thương mại, lao động hay hôn nhân, gia đình trong khi trình độ dân trí còn hạn chế nên không phải ai cũng có thể viết được. Vì thế, cần áp dụng công nghệ ngay từ khâu thụ lý vụ án. TS. Hương Lan đồng tình với quan điểm của TS. Nguyễn Bích Thảo về việc doanh nghiệp rất quan tâm đến tính bảo mật. Nhiều doanh nghiệp đã lựa chọn phương thức trọng tài chứ không phải tòa án trong giải quyết tranh chấp bởi về bản chất thì nguyên tắc xét xử của tòa án mang tính công khai. Vậy thì công khai đến đâu là phù hợp, bản án hay toàn bộ hồ sơ giải quyết tranh chấp của vụ án. Đây là câu hỏi đặt ra mà chúng ta cần phải quan tâm trong bối cảnh CMCN 4.0 đang diễn ra.

 

TS. Phạm Thị Hương Lan phát biểu bình luận

 

Theo ý kiến của ThS. Ngô Vĩnh Bạch Dương, ý nghĩa quan trọng, cốt lõi của việc công khai là các đương sự được công khai với nhau, biết được chứng cứ của nhau, lập luận của nhau còn việc công khai cho truyền thông, công chúng biết đến sẽ giúp nền tư pháp mạnh lên nhưng không phải là yếu tố hàng đầu. Công nghệ sẽ làm cho việc công khai thực chất hơn. Về hoạt động xét xử, ThS. Bạch Dương cho rằng, các thiết bị, ứng dụng được hình thành từ trí tuệ nhân tạo sẽ phân tích dữ liệu để hỗ trợ đưa ra quyết định còn thẩm phán vẫn là người phán quyết cuối cùng.  

 

Tham luận thứ tư là “Pháp luật về chứng cứ dưới tác động của cuộc CMCN 4.0” của ThS. Chu Thị Thanh An hiện đang tu nghiệp ở nước ngoài và PGS.TS. Dương Quỳnh Hoa thay mặt tác giả trình bày tại hội thảo. Trong thời điểm phát triển công nghệ số, ngoài chứng cứ truyền thống thì chứng cứ điện tử là một loại chứng cứ mới. Đặc điểm của loại chứng cứ này là: tính phụ thuộc vào thiết bị điện tử và chương trình phần mềm, ứng dụng; tính dễ dàng được sao chép và phát tán; tính dễ dàng bị thay đổi, chỉnh sửa hoặc xóa; thuộc tính khôi phục và khả năng chứa đựng siêu dữ liệu.

 

Hiện nay, chưa có quy định cụ thể về thu thập chứng cứ điện tử mà vẫn áp dụng các quy định chung về thu thập chứng cứ tại Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. Pháp luật thiếu vắng các quy định cụ thể về thu thập chứng cứ điện tử gồm những bước nào và phải tuân thủ những nguyên tắc gì trong quá trình thu thập; việc thu thập cũng phát sinh những vấn đề pháp lý về quyền riêng tư cá nhân cũng như chưa có quy định cụ thể về quy trình bảo quản chứng cứ điện tử.

 

Bài viết cũng đánh giá thực trạng pháp luật, thực tiễn áp dụng pháp luật và dự báo, gợi mở phương hướng hoàn thiện pháp luật liên quan đến những vấn đề khác của chứng cứ điện tử, đó là: trao đổi, giao nộp, xác thực, chấp nhận và đánh giá chứng cứ điện tử. 

 

 

Trao đổi về tham luận của TS. Trần Văn Biên, TS. Ngô Thanh Hương (Trường Đại học Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội) đặt câu hỏi về nguyên tắc xác định thẩm quyền theo mối liên hệ tối thiểu của tranh chấp được xác định thế nào và nếu áp dụng nguyên tắc này thì có những hạn chế, bất cập gì không và xử lý thế nào khi có xung đột về thẩm quyền? TS. Trần Văn Biên trả lời, nguyên tắc xác định thẩm quyền theo mối liên hệ tối thiểu chưa có quy định trong pháp luật Việt Nam mà đây chỉ là kinh nghiệm của một số nước trên thế giới. Ở Hoa Kỳ, nguyên tắc này đã được áp dụng khi xác định thẩm quyền của tòa án với giao dịch được thực hiện có mối liên hệ gần nơi xảy ra tranh chấp chứ không nhất thiết phải xác định theo vị trí địa lý và bị đơn phải có hoạt động kinh doanh ở nơi phát sinh tranh chấp. Dựa trên hai yếu tố này sẽ xóa đi rào cản để khi có tranh chấp xảy ra thì các bên có thể bảo vệ quyền lợi của mình.

 

Tham luận cuối được trình bày tại hội thảo là của ThS. Cao Thị Lê Thương có chủ đề “Thi hành án kinh doanh, thương mại dưới tác động của cuộc CMCN 4.0”. Tác giả đã nêu ra các đặc điểm chính trong thi hành án kinh doanh, thương mại phát sinh trong thời đại công nghệ số. Có thể kể đến như, từ đại dịch Covid-19, nhiều doanh nghiệp lựa chọn cách thức hoạt động theo dạng văn phòng ảo, họ có thể làm việc tại nhà, quản lý thông qua các ứng dụng cho nên không có địa điểm cụ thể dẫn đến việc thi hành án gặp phải những khó khăn, vướng mắc trong việc xác định trụ sở, tài sản doanh nghiệp.

Các tin cùng chuyên mục: