•  
     
  •  
     
  •  
     
  •  
     
  •  
     
LIÊN KẾT WEBSITE

Luật Đầu tư công phải chặn kẽ hở “rút” tiền ngân sách

26/06/2012
Sáng 12/6/2012, Văn phòng Chính phủ phối hợp tổ chức Hợp tác phát triển CHLB Đức (GIZ) tổ chức Hội thảo “Pháp luật về đầu tư công” nhằm đánh giá thực trạng vấn đề đầu tư công hiện nay nhằm xây dựng Luật Đầu tư công sát với thực tiễn, đem lại hiệu quả kinh tế.
Những con số biết nói

PGS.TS. Kiều Đình Thụ, Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ nhận định, đầu tư công là lĩnh vực rất quan trọng đối với Việt Nam hiện nay vì với một nền kinh tế đang chuyển đổi thì chắc chắn đầu tư cho lĩnh vực này là rất lớn. Nếu chúng ta hoạch định được đầu tư công chặt chẽ thì sẽ rất tốt đối với quản lý và phát triển nền kinh tế đất nước, còn không thì đây cũng là lĩnh vực gây lãng phí và kém hiệu quả, ảnh hưởng không tốt đến nền kinh tế nước ta.

Tuy nhiên, đầu tư công cần có những đánh giá xác đáng để thể chế vào Luật sao cho có hiệu quả. Luật Đầu tư công của Việt Nam phải xuất phát từ thực tiễn của Việt Nam. Hiện có khoảng 1.600 văn bản pháp luật liên quan đến đầu tư, đặc biệt là đầu tư công, nhưng vẫn chưa xác định được thế nào là đầu tư công do Nhà nước thực hiện.

Theo nhận định của các chuyên gia, đầu tư công ở Việt Nam còn dàn trải, phân tán ra quá nhiều dự án, ngay cả trong các ngành sản phẩm dịch vụ, công ích cũng có hàng chục nghìn dự án. Tuy nhiên, việc quản lý đầu tư bị phân tán, chia cắt theo nguồn vốn, thiếu tập trung, thống nhất. Nhu cầu của các bộ, ngành, địa phương là khổng lồ so với khả năng cân đối vốn của nhà nước và của nền kinh tế, trong khi chúng ta chưa có công cụ kiểm soát thật sự hiệu quả. Điều đó dẫn đến hệ quả là, nguy cơ tăng nhanh công nợ, nợ Chính phủ, nợ nước ngoài.

Thực tế, đầu tư của Nhà nước có năm cao nhất chiếm đến 60% tổng mức đầu tư toàn xã hội (khoảng 22% GDP) và gần đây chỉ còn 40% (khoảng 14% GDP), với cơ cấu là vốn từ Ngân sách Nhà nước chiếm đa số, vốn vay tín dụng và vốn vay nước ngoài. Ước tính, tỷ lệ đầu tư của Nhà nước ở lĩnh vực nhà hàng, khách sạn, dịch vụ thương mại… chiếm đến 12% tổng vốn đầu tư, trong khi đầu tư vào lĩnh vực giao thông, y tế, giáo dục, viễn thông… mới chiếm 42% tổng vốn đầu tư phát triển.

Hàng năm, 15% ngân sách Nhà nước dành để trả nợ, 65% chi thường xuyên, 20% chi đầu tư. Về nguyên tắc, Nhà nước chỉ vay để chi đầu tư nên khoản vay trong nước và nước ngoài để bù vào thâm hụt ngân sách (khoảng 5% GDP) mà thực chất cũng là để chi đầu tư phát triển.

Theo TS. Nguyễn Đình Cung, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương, tỷ lệ đầu tư cho doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) hiện nay còn quá lớn trên tất cả các phương diện. Chỉ với 1.309 DNNN đã nhận được đến 40% tổng vốn kinh doanh, 30% tổng vốn tín dụng, 45% tổng giá trị tài sản của của khu vực DN (trong đó tổng vốn sở hữu Nhà nước là 700.000 tỷ đồng), nhưng chỉ đóng góp 30% GDP . Hiệu quả đầu tư cho DNNN hiện nay rất thấp. Chính các DNNN cũng là những “con nợ” khổng lồ của hệ thống ngân hàng với 415.000 tỷ đồng, mà Nhà nước chính là đối tượng phải trả nợ, “góp phần” gia tăng nợ xấu của ngân hàng.

Sau công bố về thua lỗ tại Vinashine, Vinalines, những sai phạm ở Petrolimex, EVN mà Thanh tra Chính phủ đã chỉ ra càng minh chứng một thực tế là đầu tư của Nhà nước vào DNNN đang có hiệu quả “rất thấp” và đây đã “trở thành điểm yếu nội tại của nền kinh tế” – TS. Nguyễn Đình Cung nhận định.

Không chỉ có vậy, việc nguồn vốn đầu tư phân tán trong quá nhiều dự án (như các cảng biển, sân bay,…), chia cắt theo nguồn vốn trung ương và địa phương và thiếu sự tập trung thống nhất quản lý cũng khiến sự lãng phí trở nên nghiêm trọng, phân tán nguồn vốn của Nhà nước mà hầu như “không có khả năng thu hồi”.

“Cắt” dự án để lách luật

Pháp luật hiện hành về thẩm quyền quyết định đầu tư quy định, các khoản đầu tư từ 30.000 tỷ đồng (tương đương 1,5 tỷ USD) trở lên phải do Quốc hội quyết định. Như vậy, để không phải xin phép Quốc hội, cách dễ nhất là “cắt” nhỏ dự án thành các dự án, miễn sao không vượt qua con số ấn định 30.000 tỷ đồng. TS.Vũ Đình Ánh - Viện nghiên cứu giá cả và Chính sách tài chính, Bộ Tài chính cho rằng, “khe hở” này cần phải được ngăn chặn ngay từ khi xây dựng dự án Luật Đầu tư công.

Một vấn đề nữa là những bất ổn trong phân bổ ngân sách Nhà nước. Các chuyên gia kinh tế cho rằng, qui định hạn chế khả năng huy động vốn của các địa phương (tối đa 30% giá trị tổng vốn đầu tư năm đó của ngân sách địa phương, trừ các thành phố trực thuộc trung ương là mâu thuẫn không đáng có.

Những địa phương có nguồn thu ngân sách nhỏ (dưới vài trăm tỷ đồng) so với nhu cầu đầu tư thường lên đến 3.000-4.000 tỷ đồng/năm bị hạn chế huy động vốn sẽ phải vay để đầu tư. Không chỉ cấp tỉnh mà cấp huyện, xã cũng đã chọn giải pháp này mà cả khoản vay và khoản để trả nợ đều không được ghi vào danh mục thu chi ngân sách của địa phương. Nếu chính quyền không đi vay trực tiếp từ các định chế tài chính thì sẽ bảo lãnh “ngầm” cho các nhà thầu đi vay ở ngân hàng thương mại. Việc các địa phương đua nhau đi vay dưới nhiều hình thức sẽ khiến gánh nặng nợ công ngày càng nhiều vì vay thì dễ mà trả thì lâu vì nhiều lý do. Thí dụ như vụ tỉnh Hà Giang vay trên 1.000 tỷ đồng để đầu tư và giờ chưa trả hết nợ.

Một trong những biện pháp được cho là hữu hiệu để đầu tư công có hiệu quả và thể chế vào trong Luật Đầu tư công chính là phải đổi mới tư duy về vai trò và chức năng của nhà nước, thu hẹp phạm vi ngành, nghề và hoạt động đầu tư nhà nước; Không cấp vốn đầu tư DNNN trong các ngành có thị trường cạnh tranh, các ngành không phải là công ích…

(Theo http://www.nhandan.com.vn)