•  
     
  •  
     
  •  
     
  •  
     
  •  
     
LIÊN KẾT WEBSITE

Hoàn thiện các quy định của Hiến pháp bảo đảm quyền của người khuyết tật

06/08/2012
1. Vấn đề pháp lý chung về người khuyết tật

Trên thế giới, hiện có khoảng 10% dân số là người khuyết tật1. Người khuyết tật là “người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn” (Điều 2 Luật Người khuyết tật năm 2010 của Việt Nam). Việt Nam có khoảng 5,3 triệu người khuyết tật, chiếm khoảng 6,34% dân số. Các nguyên nhân gây khuyết tật ở Việt Nam rất đa dạng: do bẩm sinh (35,8%), do bệnh tật (32,34%), do hậu quả chiến tranh (25,56%), do tai nạn lao động (3,49%) và do các nguyên nhân khác (2,81%). Dự báo trong nhiều năm tới, số lượng người khuyết tật ở Việt Nam chưa giảm do tác động của ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng của chất độc hóa học do Mỹ sử dụng trong chiến tranh Việt Nam, tai nạn giao thông và tai nạn lao động, hậu quả thiên tai2

Có thể nói, sự tồn tại của người khuyết tật trong xã hội là một hiện tượng khách quan. Tuy vậy, lâu nay, đa số người khuyết tật vẫn bị mặc cảm, bị gạt ra khỏi các hoạt động chung của cộng đồng. Cũng vì mang những khiếm khuyết về thể chất hoặc tâm thần, người khuyết tật gặp rất nhiều trở ngại trong cuộc sống và trở thành nhóm thiểu số “yếu thế” trong cộng đồng xã hội. Đặc biệt, so với các nhóm “yếu thế” khác như phụ nữ, trẻ em, người dân tộc thiểu số, người khuyết tật gặp nhiều khó khăn hơn trong việc truyền tải nhu cầu, mong muốn của mình tới cộng đồng xã hội cũng như những cơ quan hoạch định chính sách, pháp luật. Đến nay, đời sống vật chất, tinh thần của đa số người khuyết tật còn rất nhiều khó khăn. Có tới 37% người khuyết tật đang sống trong hộ nghèo (cao gấp 3 lần so với tỷ lệ nghèo chung cùng thời điểm); 24% ở nhà tạm; 88,94% số người từ 16 tuổi chưa được đào tạo chuyên môn (trong đó chỉ có 2% đang học nghề); 79,13% sống dựa vào gia đình, người thân3... Các điều kiện đó đã cản trở người khuyết tật tiếp cận dịch vụ y tế, giáo dục, học nghề, tìm kiếm việc làm, tham gia giao thông, dẫn đến khó khăn trong cuộc sống và hoà nhập với cộng đồng.

Xét ở góc độ con người, thì dù có khuyết tật hay không, mọi người vẫn có những nhu cầu cơ bản giống nhau về sự tự do, bình đẳng, được tôn trọng phẩm giá và được cống hiến, được khẳng định giá trị cá nhân... Nhưng vì hạn chế trong việc truyền tải nhu cầu, nên trên thực tế, Nhà nước và xã hội thường dựa trên mức độ suy giảm sức khỏe của người khuyết tật để suy đoán về khả năng cũng như nhu cầu của người khuyết tật và đưa ra các chính sách dành cho người khuyết tật dựa trên sự suy đoán đó. Những suy đoán đó chứa đựng nhiều yếu tố chủ quan nên nhiều khi không đáp ứng được nhu cầu, phù hợp với khả năng của người khuyết tật và tạo điều kiện cho người khuyết tật.

Trong những năm gần đây, mối quan tâm của cộng đồng quốc tế đối với vấn đề bảo đảm quyền của người khuyết tật ngày càng được nâng cao. Cộng đồng quốc tế đã bước đầu xây dựng được hệ thống chuẩn mực quốc tế về nguyên tắc ứng xử với người khuyết tật trên quan điểm bảo đảm các nội dung quyền con người cơ bản. Những văn kiện quốc tế về quyền con người có nội dung liên quan trực tiếp đến vấn đề người khuyết tật đã ra đời, như Công ước số 111 của ILO về phân biệt đối xử trong lĩnh vực việc làm và nghề nghiệp (1958); Công ước số 159 của ILO về phục hồi chức năng lao động và việc làm cho người khuyết tật (1983); Công ước số 168 về xúc tiến việc làm và chống thất nghiệp (1988); Công ước của Liên hợp quốc về quyền của người khuyết tật năm 2006 (có hiệu lực năm 2008) và Nghị định thư không bắt buộc. Ngoài ra còn có những văn kiện mang tính khu vực có liên quan đến người khuyết tật như Chính sách nhất quán của Ủy ban châu Âu về tái thích ứng nghề nghiệp cho người khuyết tật (1992); “Khuôn khổ hành động thiên niên kỷ Biwako” (BMF) hướng tới một xã hội hoà nhập, không vật cản vì quyền lợi của người khuyết tật ở châu Á - Thái Bình Dương... Với việc ban hành các văn kiện trên, đặc biệt là sự ra đời của Công ước về quyền của người khuyết tật đã cho thấy, các quốc gia đang thay đổi lại cách nhìn nhận về năng lực và nhu cầu của người khuyết tật trong đời sống xã hội.

 Nhà nước Việt Nam đã tham gia vào rất nhiều công ước liên quan đến vấn đề bảo đảm quyền con người, đặc biệt là người khuyết tật. Việt Nam đã phê chuẩn việc gia nhập Công ước số 111 của ILO về phân biệt đối xử trong lĩnh vực việc làm và nghề nghiệp (1958) năm 1997; ký Công ước của Liên hợp quốc về quyền của người khuyết tật vào năm 2007 và đang trong quá trình nghiên cứu trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê chuẩn; Công ước số 159 của ILO về phục hồi chức năng lao động và việc làm cho người khuyết tật (1983) cũng đang được các cơ quan nhà nước nghiên cứu phê chuẩn. Việt Nam cũng đang rất nỗ lực để đạt được các mục tiêu đặt ra trong “Khuôn khổ hành động thiên niên kỷ Biwako” (BMF) hướng tới một xã hội hoà nhập, không vật cản vì quyền lợi của người khuyết tật ở châu Á - Thái Bình Dương...

2. Những quy phạm hiến pháp về người khuyết tật

Cùng với việc tham gia vào các công ước quốc tế liên quan đến người khuyết tật, sự quan tâm của Nhà nước ta đối với người khuyết tật còn được thể hiện cụ thể trong pháp luật, trước hết là trong các quy phạm của Hiến pháp - đạo luật cơ bản của Nhà nước.

Ngay từ Hiến pháp 1946, mặc dù được ban hành trong một tình thế rất khẩn trương, số lượng điều khoản không nhiều (chỉ có 70 điều) nhưng Hiến pháp 1946 đã dành Điều 14 quy định trực tiếp về người khuyết tật “Những công dân già cả hoặc tàn tật không làm được việc thì được giúp đỡ”.

Trong Hiến pháp 1959, vấn đề người khuyết tật được nêu tại Điều 32: “Người lao động có quyền được giúp đỡ về vật chất khi già yếu, bệnh tật, hoặc mất sức lao động. Nhà nước mở rộng dần các tổ chức bảo hiểm xã hội, cứu tế và y tế để bảo đảm cho người lao động được hưởng quyền đó”.

Hiến pháp 1980 có bổ sung thêm chế độ đối với người khuyết tật, đặc biệt là thương, bệnh binh: “Nhà nước thực hiện chính sách ưu đãi đối với thương binh và gia đình liệt sĩ, tạo điều kiện cho thương binh phục hồi chức năng lao động, có việc làm phù hợp với sức khoẻ và có cuộc sống ổn định” (Điều 74).

Những quy định trong Hiến pháp 1980 có ý nghĩa bảo vệ quyền của người khuyết tật tiếp tục được ghi nhận và phát triển trong nội dung của các bản Hiến pháp 1992. “Học tập là quyền và nghĩa vụ của công dân”... “Nhà nước và xã hội tạo điều kiện cho trẻ em khuyết tật được học văn hoá và học nghề phù hợp” (Điều 59)... “Thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ được hưởng các chính sách ưu đãi của Nhà nước. Thương binh được tạo điều kiện phục hồi chức năng lao động, có việc làm phù hợp với sức khoẻ và có đời sống ổn định. Những người và gia đình có công với nước được khen thưởng, chăm sóc. Người già, người tàn tật, trẻ mồ côi không nơi nương tựa được Nhà nước và xã hội giúp đỡ” (Điều 67).

Năm 2001, Quốc hội ban hành Nghị quyết số 51/QH10 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp 1992, trong đó có sửa đổi liên quan đến vấn đề người khuyết tật tại Điều 59 dùng từ “khuyết tật” thay cho từ “tàn tật”. Trên cơ sở sự thay đổi này của Hiến pháp, năm 2010, Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật Người khuyết tật thay thế Pháp lệnh Về người tàn tật năm 1998. Những thay đổi này không đơn thuần là sự thay đổi về mặt câu chữ, mà đã thể hiện sự thay đổi phần nào trong nhận thức của Nhà nước và xã hội về vai trò của người khuyết tật trong đời sống xã hội. Điều này cũng có ý nghĩa định hướng quan trọng trong việc hoàn thiện chính sách hỗ trợ toàn diện của Nhà nước đối với người khuyết tật, nhằm bảo đảm sự hòa nhập tối đa của người khuyết tật vào cộng đồng, để họ phát huy khả năng, thể hiện giá trị của bản thân trong đời sống xã hội.

3. Hoàn thiện Hiến pháp 1992 bảo đảm quyền của người khuyết tật

Sự hiện diện của vấn đề người khuyết tật trong nội dung các Hiến pháp Việt Nam đã cho thấy tầm quan trọng của vấn đề này đối với xã hội Việt Nam. Tuy nhiên, những quy định hiện hành của Hiến pháp về người khuyết tật vẫn chưa đủ để bảo đảm toàn diện các quyền của người khuyết tật.

Để tạo cơ sở hiến định bảo đảm quyền của người khuyết tật một cách đầy đủ hơn, Hiến pháp cần được bổ sung thêm một số nội dung mới. Các nội dung được thể hiện trong Hiến pháp phải hướng tới: đảm bảo cơ hội có việc làm, được giáo dục, được hòa nhập cộng đồng và bảo đảm các chế độ phúc lợi xã hội đối với người khuyết tật. Cụ thể:

Bổ sung nguyên tắc “cấm phân biệt đối xử vì lý do khuyết tật”

Nguyên tắc cấm phân biệt đối xử đã được đề cập đến trong nhiều điều khoản của Hiến pháp hiện hành (Điều 52, 54, 63, 70); tuy nhiên, những yếu tố phân biệt đối xử được nêu trong Hiến pháp mới chỉ gồm: dân tộc, giới tính, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ, nghề nghiệp, thời hạn cư trú mà chưa có tình trạng khuyết tật. Mặc dù theo suy luận thì người khuyết tật nếu rơi vào các trường hợp đặc thù về dân tộc, giới tính, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ, nghề nghiệp, thời hạn cư trú cũng vẫn được hưởng chế độ đối xử bình đẳng, không phân biệt, theo những quy định trên. Nhưng cần phải thấy rằng, sự phân biệt đối xử vì lý do khuyết tật không căn cứ vào dân tộc, giới tính, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ, nghề nghiệp, thời hạn cư trú là một thực tế. Cho đến nay, dù nhận thức của cộng đồng xã hội về năng lực của người khuyết tật đã có nhiều chuyển biến tích cực nhưng vẫn còn không ít người coi người khuyết tật là những người “vô dụng, bỏ đi”; do đó, số lượng người khuyết tật có thể tham gia đầy đủ vào các hoạt động chung của cộng đồng còn rất hạn chế. Vẫn còn nhiều người khuyết tật bị đối đãi không tốt trong các lĩnh vực lao động, việc làm, giáo dục, đào tạo, tham gia các hoạt động chung khác... Vì vậy, Hiến pháp cần bổ sung thêm yếu tố: cấm phân biệt đối xử “tình trạng khuyết tật” vào những quy định có đặt ra vấn đề cấm phân biệt đối xử, hoặc có một quy định riêng về người khuyết tật trong đó nêu rõ nội dung “cấm phân biệt đối xử vì lý do khuyết tật”.

Xác định rõ trách nhiệm của Nhà nước trong việc tạo điều kiện phục hồi chức năng lao động và hỗ trợ việc làm cho người khuyết tật

Hiến pháp hiện hành cũng đã nói đến vấn đề phục hồi chức năng lao động và hỗ trợ việc làm cho người khuyết tật (Điều 67), nhưng đối tượng được đề cập ở đây chỉ là “thương binh”.

Việc làm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với nhiều người khuyết tật. Có việc làm ổn định sẽ giúp người khuyết tật có nguồn thu nhập cần thiết để trang trải cho các nhu cầu chi tiêu trong cuộc sống hàng ngày của bản thân, do vậy, giúp họ giảm sự lệ thuộc vào những người khác. Thực tế cho thấy, rất nhiều người khuyết tật đã bị người khác hành hạ, ngược đãi, lợi dụng, bóc lột, xúc phạm danh dự, nhân phẩm... chỉ vì họ bị lệ thuộc, họ không thể tự nuôi sống bản thân. Ngoài ra, khi người khuyết tật tham gia lao động, cống hiến cho xã hội trở nên phổ biến, sự nhìn nhận của xã hội đối với người khuyết tật cũng sẽ thay đổi, sự kỳ thị, thiếu tôn trọng đối với họ sẽ dần mất đi.

Trong thời gian tới, Hiến pháp cần quy định theo hướng mở rộng đối tượng được tạo điều kiện phục hồi chức năng lao động và hỗ trợ việc làm cho tất cả những người khuyết tật không phân biệt nguồn gốc khuyết tật.

Có quy định chung về giáo dục, đào tạo đối với người khuyết tật

Hiện nay, theo Điều 59 Hiến pháp 1992 thì “Nhà nước và xã hội tạo điều kiện cho trẻ em khuyết tật được học văn hoá và học nghề phù hợp”. Điều 59 chỉ nói tới vấn đề học văn hóa và học nghề đối với trẻ em khuyết tật. Nhưng trên thực tế, có rất nhiều người khuyết tật trưởng thành cần được học văn hóa và học nghề. Do vậy, Hiến pháp nên có một quy định chung về học văn hóa và học nghề đối với người khuyết tật.

*         *
 *

Trên đây là một số đề xuất về việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp nhằm tăng cường khả năng bảo đảm các quyền của người khuyết tật ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Nếu Hiến pháp xác lập được một cơ chế bảo đảm toàn diện các quyền của người khuyết tật thì đó sẽ là một minh chứng quan trọng thể hiện thiện chí của chúng ta đối với những cam kết quốc tế liên quan đến người khuyết tật mà Việt Nam đã ký kết, tham gia.

Chú thích:
[1] Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), Hướng tới cơ hội làm việc bình đẳng cho người khuyết tật thông qua hệ thống pháp luật, tài liệu hướng dẫn, tr. 3.
[2] Tờ trình số 168/TTr-CP ngày 10/10/2009 của Chính phủ về Dự án Luật Người Khuyết tật
[3] Tờ trình số 168/TTr-CP ngày 10/10/2009 của Chính phủ

ThS. Đinh Thị Cẩm Hà
Giảng viên Khoa Luật Hành chính, Đại học Luật TP Hồ Chí Minh

(Theo http://www.nclp.org.vn)